Bài văn thuyết minh về con tê tê

Tê tê là một trong những loài vật đẹp đẽ và vô cùng thú vị, tê tê là động vật có vú duy nhất trên thế giới có vảy. Các móng vuốt lớn và dài của chúng cho phép chúng đào hang dưới lòng đất để trú ngụ và đào ổ kiến, mối mọt để ăn, đồng thời cũng giúp xới lên và tạo độ thoáng khí cho đất. Điều này cải thiện chất lượng dinh dưỡng của đất và hỗ trợ cho quá trình phân hủy, cung cấp một lớp đất nền tốt cho thảm thực vật tươi tốt phát triển.


Tê tê hay còn gọi là trút hoặc xuyên sơn, (tiếng Anh: Pangolin) là các loài động vật có vú thuộc Bộ Tê tê (Pholidota) (từ tiếng Hy Lạp cổ đại φολῐ́ς, "vảy sừng"). Chỉ còn một họ còn sinh tồn, Họ Manidae, gồm ba chi: Manis, Phataginus và Smutsia. Chi Manis bao gồm 4 loài được tìm thấy ở châu Á, trong khi chi Phataginus và Smutsia mỗi chi chỉ gồm 2 loài sống ở Châu Phi Hạ Sahara. Những loài này có kích thước từ 30 đến 100 cm. Một số loài tê tê đã bị tuyệt chủng cũng được biết đến.


Thân tê tê có lớp vảy lớn bằng keratin - chất liệu tương tự móng tay và móng chân bảo vệ và cứng bao phủ da của chúng; chúng là động vật có vú duy nhất được biết đến với đặc điểm này. Chúng sống trong những hốc cây rỗng hoặc hang, tùy theo loài ở các miền nhiệt đới châu Á và châu Phi. Tê tê là loài sống về đêm, và chế độ ăn uống của chúng bao gồm chủ yếu là kiến và mối chúng bắt được bằng cái lưỡi dài của chúng. Vào ban ngày, chúng cuộn tròn thành quả bóng để ngủ. Chúng thường là động vật sống đơn độc, chỉ gặp nhau để giao phối và sinh ra một lứa từ một đến ba con và nuôi trong khoảng hai năm.


Tê tê bị đe dọa bởi nạn săn trộm (để lấy thịt và vảy của chúng, được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc), và nạn phá rừng nặng nề đe dọa môi trường sống tự nhiên của chúng. Chúng là loài động vật có vú bị buôn bán nhiều nhất trên thế giới. Kể từ tháng 1 năm 2020, trong số 8 loài tê tê, 3 loài (Manis culionensis, M. pentadactyla và M. javanica) được đánh giá là có nguy cơ bị tuyệt chủng; 3 loài (Phataginus tricuspis, Manis crassicaudata và Smutsia gigantea) được đánh giá là loài nguy cấp; 2 loài (Phataginus tetradactyla và Smutsia temminckii) được đánh giá là dễ bị tổn thương trong sách đỏ IUCN của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế.


Tên tê tê bắt nguồn từ tiếng Mã Lai "pengguling", có nghĩa là "con cuộn tròn". Tuy nhiên, tên hiện đại trong tiếng Mã Lai chuẩn là tenggiling; trong khi trong tiếng Indonesia, nó là trenggiling; và trong ngôn ngữ Philippines, nó là goling, tanggiling, hoặc balintong (với cùng nghĩa).


Toàn thân tê tê có lớp vảy cứng bao bọc, chồng lên nhau giống như những tấm vảy, chỉ chừa phần phía bụng. Khi mới sinh ra, vảy tê tê mềm nhưng dần cứng lại khi chúng trưởng thành. Chúng được làm bằng keratin, cùng một chất liệu giống móng tay của con người và móng vuốt dài và cứng, và có cấu trúc và thành phần khác với vảy của loài bò sát. Bề ngoài cơ thể có vảy tương đương với hình nón thông. Mép vảy sắc và nhọn để giúp việc phòng thủ. Nó có thể cuộn tròn lại thành một quả bóng khi bị đe dọa, với những lớp vảy chồng lên nhau đóng vai trò như một chiếc áo giáp, trong khi nó bảo vệ khuôn mặt của mình bằng cách nhét nó dưới đuôi. Các vảy sắc nhọn, cung cấp thêm khả năng phòng thủ khỏi những kẻ săn mồi. Chúng còn tự vệ bằng cách xịt dung dịch axit hôi từ tuyến gần hậu môn, tương tự như chất phun của chồn hôi. Tê tê có móng dài và cứng; móng hai chân trước được dùng để phá tổ côn trùng tìm thức ăn, đào hang vào các gò kiến và mối và để leo trèo. Vì móng dài nên chúng không đi bằng cách đạp chân xuống đất mà ngược lại, tê tê di chuyển bằng cách co hai chân trước lại và giẫm lên mu bàn chân. Miệng chúng không có răng; thức ăn chủ yếu là kiến và mối. Chúng dùng lưỡi dài (có thể lên đến 40 cm, đường kính chỉ 0,5 cm) với nước dãi rất dính để bắt mồi. Lưỡi nằm trong lồng ngực, giữa xương ức và khí quản. Phần đuôi tê tê có khả năng cầm nắm, để giúp vịn vào cành cây khi leo trèo. Các loài tê tê đo được từ 30 đến 100 cm. Con cái thường nhỏ hơn con đực. Chúng làm ổ trong những hốc cây rỗng hay đào hang sâu dưới đất.


Tê tê ăn côn trùng. Chúng ăn hầu hết nhiều loài kiến và mối khác nhau và có thể bổ sung bởi các loại côn trùng khác, đặc biệt là ấu trùng. Chúng hơi đặc biệt và có xu hướng chỉ tiêu thụ một hoặc hai loài côn trùng, ngay cả khi nhiều loài có sẵn. Một con tê tê có thể tiêu thụ 140 đến 200 gram (5 đến 7 ounce) côn trùng mỗi ngày. Tê tê là cơ quan điều tiết quan trọng của quần thể mối trong môi trường sống tự nhiên. Tê tê có thị lực rất kém và bị thiếu răng. Chúng chủ yếu dựa vào khứu giác và thính giác, ngoài ra còn có những đặc điểm cơ thể khác giúp chúng ăn kiến và mối. Cấu trúc bộ xương của chúng rất chắc chắn và hai chân trước khỏe, hữu dụng khi xé các gò mối. Chúng sử dụng móng vuốt phía trước khỏe của mình để đào sâu vào cây, mặt đất và thảm thực vật để tìm con mồi, sau đó sử dụng chiếc lưỡi dài để thăm dò bên trong các đường hầm của côn trùng và lấy con mồi. Cấu trúc của lưỡi và dạ dày là chìa khóa giúp tê tê kiếm được và tiêu hóa côn trùng. Nước bọt dính khiến kiến và mối dính vào chiếc lưỡi dài khi chúng săn trong đường hầm của côn trùng. Không có răng, tê tê cũng không có khả năng nhai; tuy nhiên, trong lúc kiếm ăn, chúng ăn phải những viên đá nhỏ tích tụ trong dạ dày. Phần dạ dày này được gọi là mề, và được bao phủ bởi các gai keratin. Những chiếc gai này hỗ trợ thêm cho quá trình nghiền nát và tiêu hóa con mồi của tê tê. Một số loài, chẳng hạn như tê tê cây, sử dụng chiếc đuôi cứng cáp của chúng để treo trên cành cây và tước vỏ cây, để lộ tổ côn trùng bên trong.


Tê tê sống đơn độc và chỉ gặp nhau để giao phối. Con đực to hơn con cái, nặng hơn tới 40%. Mặc dù thời gian giao phối không xác định được, nhưng chúng thường giao phối một lần mỗi năm, thường là vào mùa hè hoặc mùa thu. Thay vì con đực tìm kiếm con cái, con đực đánh dấu vị trí của chúng bằng nước tiểu hoặc phân và con cái sẽ tìm chúng. Nếu có sự cạnh tranh về con cái, con đực sẽ sử dụng đuôi của chúng làm vũ khí để tranh giành cơ hội giao phối với con cái. Thời gian mang thai khác nhau tùy theo loài, khoảng 120-150 ngày, đẻ lứa từ một (tê tê châu Phi) đến ba con (tê tê châu Á). Chúng thường đẻ một con, ít khi hai. Tê tê con có trọng lượng từ 80-450g. Lúc mới sinh vảy mềm, màu trắng. Sau một vài ngày, chúng cứng lại và sẫm màu giống những con trưởng thành. Trong giai đoạn sinh trưởng, con mẹ ở cùng với con cái trong hang. Chúng bám vào đuôi mẹ, khi gặp nguy hiểm con mẹ giấu con dưới bụng và cuộn tròn người lại, nhưng cũng có loài tê tê ẩn trong hang đến 2-4 tuần thì mới ra ngoài. Khi được một tháng tuổi, chúng lần đầu tiên rời hang cưỡi trên lưng mẹ. Chúng thôi sữa ở khoảng ba tháng, ở giai đoạn này con non bắt đầu ăn côn trùng và đến hai tuổi thì trưởng thành, có thể sinh sản được.


Các loài tê tê ở cả châu Phi lẫn châu Á đều bị con người săn bắn lấy thịt. Tại Trung Quốc thịt tê tê được coi là cao lương bổ trong Đông y, giúp điều hòa lưu huyết và tăng lượng sữa cho sản phụ nên bán rất được giá. Chúng cũng được dùng như một chất khử trùng và có thể được sử dụng cho bệnh sốt và bệnh ngoài da, hoặc dùng bên ngoài chà lên da bị trầy xước của bệnh nhân, hoặc nghiền nát và tiêu hóa. Các phần của cơ thể chúng, đặc biệt là các loài Đông Nam Á bị nhập khẩu một mức độ lớn trong thị trường ngầm đến Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam.


Ngoài săn bắn cùng với nạn phá rừng, phá hoại môi trường sống của chúng, đã làm giảm số lượng tê tê, nhất là loài Manis gigantea do bị săn bắn quá mức. Tê tê là loài nguy cấp, quý hiếm, được ưu tiên bảo vệ thuộc Nghị định 160/2013/NĐ-CP. Hãy chung tay tuyên truyền, lên tiếng bảo vệ loài động vật quý hiếm này.

Bài văn thuyết minh về con tê tê
Bài văn thuyết minh về con tê tê
Bài văn thuyết minh về con tê tê
Bài văn thuyết minh về con tê tê

Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy