Bài văn phân tích chất thơ trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" số 1

“Mỗi người nghệ sĩ có một cái tạng riêng, một tố chất tâm hồn riêng tạo nên một thứ nam châm hút lấy những cái gì phù hợp” (Nguyễn Đăng Mạnh). Có lẽ vì vậy mà mỗi khi đọc những tác phẩm của Nam Cao, như “Chí Phèo” chẳng hạn, tôi lại cảm, lại thấm thía cái nỗi đau tột cùng của người nông dân trong xã hội cũ. Cũng có những khi cuộc sống xô bồ, tôi lại tìm đến với Thạch Lam, mượn chiếc chìa khóa để bước vào cánh cổng của miền thần tiên, cổ tích, cảm nhận tâm hồn mình lắng lại “dưới bóng hoàng lan”. Nhưng không hiểu sao, tôi vẫn thích nhất cái cảm giác mỗi khi đọc những “trang thơ” rất thơ của Tô Hoài - “Vợ chồng A Phủ”.


Có lẽ “chất thơ” chẳng còn xa lạ gì đối với những bạn đọc yêu văn học, đặc biệt là với những thi gia, đó là tính chất trữ tình, tính chất được tạo nên từ sự hòa quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của các biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mỹ và tình cảm nhân văn.


Thế nhưng có mâu thuẫn gì không khi nói một tác phẩm văn xuôi, truyện ngắn cũng thấm đẫm chất thơ? Chúng ta hoàn toàn có thể và có quyền nói như vậy. Chất thơ tự bao giờ đã không còn bó hẹp mình trong khuôn khổ của những bài thơ trữ tình, nó đã tự bật tung, phát ra ánh sáng và phù lên văn đàn Việt Nam một lớp áo vô hình chỉ được cảm nhận bằng rung động con tim, xúc động tâm hồn.


Trên văn đàn Việt Nam có biết bao những tác phẩm văn xuôi thấm đẫm chất thơ nhưng không phải tác phẩm nào được sinh ra dưới ngòi bút của người nghệ sĩ đều mang sẵn trong mình tính chất trữ tình, đều thấm đẫm những ý thơ trong văn xuôi. Một truyện ngắn được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người viết không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái của đời sống hoặc của tâm hồn con người, và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là một tác phẩm như vậy.


Cách đây hơn sáu mươi năm trước, có một người lữ khách đã băng rừng, lội suối để tìm đến với một vùng đất mới, để khai phá và mang những nét đẹp của một vùng đất xa xôi đến với bạn đọc bấy giờ: Tô Hoài trên con đường tìm đến với mảnh đất Tây Bắc thân yêu. “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn tập trung tinh hoa của ngòi bút Tô Hoài về Tây Bắc không chỉ vì nó đem lại những hương sắc lạ về cảnh trí, con người mà quan trọng hơn còn là khả năng phân tích tinh tế những diễn biến đầy mâu thuẫn của nội tâm, kết đọng một tình cảm nhân đạo đậm đà để rồi bao trùm lên tất cả là điều mà sau này Tô Hoài đã cảm thấy “một chất thơ vời vợi bay lên từ cảnh vật của nơi rừng núi tuyệt vời thơ mộng ấy”


Trước tiên tôi muốn nói tới một yếu tố tạo nên sức hấp dẫn diệu kỳ của nơi rừng núi Tây Bắc. Một thế giới không phải cổ tích mà như thoảng hương ca dao, cổ tích, một thế giới hứa hẹn rất nhiều sức gợi cảm hiện lên qua bức tranh thiên nhiên sống động, quyến rũ, đẹp mê hồn của Hồng Ngài: “năm ấy, Hồng Ngài ăn tết sớm giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đô, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Với những gam màu tự nhiên, tất cả cảnh vật, thiên nhiên, đất trời cùng thêu dệt tạo nên một bức tranh thủy mặc của tạo hóa chỉ được tìm thấy ở chốn núi rừng Tây Bắc.


Sẽ là chưa đủ nếu bức tranh ấy thiếu bóng dáng của con người. Tuyệt vời làm sao khi mỗi độ tết đến, người ta lại trông thấy “đám trẻ đội Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà”. Rồi những đêm tình mùa xuân, những người con trai mang tiếng khèn, điệu nhạc đi tìm “bạn yêu”. Khung cảnh ấy mở ra trong tâm trí người đọc một miền đất thanh bình với những nét đẹp văn hóa bình dị nhưng đầy ý nghĩa đối với con người.


Thiên nhiên dù đẹp đến đâu cũng chỉ là phông nền cho con người tỏa sáng, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” thơ nhất có lẽ phải kể tới bức tranh đời sống tâm hồn của con người nơi đây. Những cô gái như cô Mị tài sắc dù bị vùi dập bởi chế độ phong kiến miền núi, bởi nam quyền, thần quyền nhưng sức sống tiềm tàng chưa bao giờ tắt lịm. Những chàng trai như A Phủ dù cuộc đời trăm đắng ngàn cay nhưng vẫn đầy bản lĩnh, gan góc, quyết liệt, dữ dội.


Khi cánh cửa “Vợ chồng A Phủ” vừa mở ra, Tô Hoài đã dắt nẻo hồn ta đến với một con người hay đúng hơn là một kiếp người, một số phận nghiệt ngã qua hình ảnh của người thiếu phụ buồn “ngồi quay sợi bên tảng đá trước của, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợ, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị như một cái bóng, một mảng tối im lìm trong cảnh giàu sang của nhà thống lí Pá Tra. Càng ngày Mị càng không nói, chỉ “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Người đàn bà ấy bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, nơi lui vào, lui ra chỉ là một căn buồng kín mít “chỉ có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay”. Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, cũng chẳng đi chơi Tết.


Nhà văn có tả hình dáng nhưng không nhằm khắc họa chân dung ngoại hình mà chủ yếu làm nổi bật con người số phận, một số phận nghiệt ngã đắng cay, tủi cực. Điều đó có sức ám ảnh đối với độc giả, gieo vào lòng người đọc những xót thương. Ách áp bức nặng nề của bọn chúa đất miền núi, cả cường quyền và thần quyền đã đè nén một tâm hồn yêu đời khát sống trở thành một người hoàn toàn tê liệt về ý thức: “sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi”, “Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa”, “Mị chỉ cúi mặt không nghĩ ngợi”, chỉ “nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau”, Mị không còn ý thức được về thời gian, tuổi tác và cuộc sống. Cô giống như một cỗ máy hoạt động theo một quy luật đã được lập trình sẵn. Mị vô cảm, không tình yêu, không khát vọng, thậm chí cũng không còn biết đến khổ đau.


Nhưng đâu đó trong thẳm sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì khổ đau, cơ cực ấy vẫn tiềm ẩn một cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đóa hoa nơi núi rừng Tây Bắc đầy sức sống, một người con gái trẻ trung, hiếu thảo. Ngày ấy tâm hồn yêu đời của Mị gửi vào tiếng sáo: “Mị thổi sáo giỏi, không có sáo, Mị uốn chiếc lá trên môi cũng hay như thổi sáo vậy”/ Ở Mị, khát vọng tình yêu, tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi “trai làng đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ lại sớm rơi vào cạm bẫy.


Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Nhà văn miêu tả những tố chất này ở Mị khiến cho câu chuyện phát triển theo một hướng tự nhiên, hợp lý. Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, cái bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội nó sẽ bùng lên mãnh liệt.


Bị bắt về nhà thống lí làm con dâu gạt nợ, Mị định tự tử, Mị tìm đến cái chết chính là sự phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể nào làm khác được trong hoàn cảnh ấy, có đến “mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc”, Mị trốn về nhà cầm nắm lá ngón trên tay. Chính khát vọng được sống một cuộc sống đúng nghĩa đã khiến Mị không thể chấp nhận một cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử như một con vật. Mị tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Đêm tình mùa xuân là cái đêm đáng ghi nhớ nhất trong cuộc đời của Mị. Mị đột nhiên lại muốn đi chơi và sửa soạn để đi chơi. Tô Hoài đã bộc lộ tất cả những anh hao của mình trong việc lý giải sự chuyển biến tâm lý của Mị, nó vừa như là một hành động bộc phát, lại vừa là một hệ quả tất yếu của một sức sống tiềm tàng được khơi dậy, bùng lên để quên đi thực tại, sống với bản chất của mình.


Sự thức tỉnh ý thức của Mị trước hết là nhờ sự tác động của hoàn cảnh, khi mà Mị nhìn thấy vẻ đẹp của cảnh vật Hồng Ngài khi xuân đến. Nếu ngoại cảnh là chất xúc tác gián tiếp thì rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời khát sống của Mị trỗi dậy. “Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một” như nuốt cay, nuốt đắng, nuốt uất, nuốt hận vào lòng. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị đi theo tiếng sáo.


Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi, Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát của người đang thổi”. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát khao hạnh phúc. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lại dụng công miêu tả tiếng sáo nhiều lần đến vậy. “Tiếng sáo gọi bạn cứ tha thiết, bồi hồi”, “ngoài đầu núi lấp lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo”, “tai Mị vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”, “mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi”, “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị. Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng chừng đã nguội tắt.


Thoạt tiên, tiếng sáo còn “lửng lơ”, “lấp ló” ngoài đầu núi, ngoài đường. Sau đó tiếng sáo đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của Mị và cuối cùng trở thành lời mời gọi tha thiết để rồi tâm hồn Mị bay theo tiếng sáo. Mị đã thoát khỏi tâm trạng thờ ơ, nguội lạnh lâu nay. Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ của mình và niềm vui sống trở lại: “Mị còn trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Phản ứng đầu tiên của Mị là “nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết” chứ không buồn nhớ lại nữa cái ngày xưa đẹp đẽ ấy bởi nhớ lại “chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Những giọt nước mắt tưởng chừng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài. Đau khổ tưởng đã làm Mị tê liệt về lý trí lẫn tình cảm nhưng từ trong sâu thẳm, tâm hồn Mị không chết, Mị vẫn còn khóc được cho hoài niệm của mình, khóc cho vết thương tưởng như đã mãi mãi thánh sẹo, thành chai. Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn tới hành động: “lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”.


Đây là hành động của sự thức tỉnh. Mị muốn thắp sáng cho cuộc đời tăm tối của mình. Chi ít, thứ ánh sáng này cũng giúp Mị cảm thấy mình không phải là một thứ đồ vật bị lãng quên. Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Và cứ như một người đàn bà mộng du, Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói mà tiếng sáo vẫn dìu tâm hồn Mị “đi theo những cuộc chơi, đám chơi”. Tâm hồn Mị đã thuộc về một thế giới khác, một thế giới lung linh như ngọc bích, lóng lánh như pha lê, một thế giới mà ở đó, Mị thổi sáo, Mị hát, Mị yêu và được yêu. Đó là một sức sống tiềm tàng, dữ dội và mãnh liệt.


Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở Mị được biểu hiện rõ nhất ở hành động “vùng bước đi” giữa lúc cả người bị trói đứng vào cột. Chỉ khi “tay chân đau không cựa quậy được”, Mị mới sực tỉnh trở về hiện tại. Tiếng sáo im bặt, thay vào đó là “tiếng chân ngựa đạp vách” khiến Mị cay đắng nghĩ “mình không bằng con ngựa”. Trong tác phẩm, rất nhiều lần tác giả nhắc đến cuộn dây trói, đó là biểu tượng cho chế độ cường quyền và thần quyền khắc nghiệt, nhưng ngay cả khi cuộn dây thít chặt cũng không thể ngăn con người nghĩ đến cuộc sống, sống với thế giới của tình yêu và khát vọng.


Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào một tình huống bi kịch: “khát vọng mãnh liệt – hiện thực phũ phàng khiến cho sức sống của Mị càng thêm phần dữ dội. Quá trình hồi sinh của một sức sống tiềm ẩn được nhà văn miêu tả không hề hời hợt, dễ dãi. Nhân vật thoát khỏi sự thờ ơ, nguội lạnh không hề đơn điệu, dễ dàng. Mị sống quá lâu trong cái khổ, vì thế, sự hồi sinh đến quá nhanh rất dễ gây cảm giác giả tạo. Đó phải là một quá trình chuyển biến lớn dần và phải có một sự tác động đặc biệt. Sự tác động đó không gì thay thế được chính là tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Một làn sóng cảm xúc đi qua, dù mãnh liệt cũng không thể làm thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng những gì mà Tô Hoài viết về đêm tình mùa xuân ấy thật vô cùng ý nghĩa. Qua đây nhà văn muốn khẳng định: Sức sống của con người dù bị giẫm đạp, bị trói chặt vẫn luôn âm ỉ, chỉ cần gặp dịp là sẽ bùng lên.


Khi tiếng sáo im bặt, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách cũng là lúc mọi ký ức tan biến, cuộc đời Mị lại như những đêm đông trên miền núi cao, vừa dài vừa buồn. Trước cảnh A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn vô cảm, vẫn “thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Có đêm, bị A Sử đánh gục ngay trên bếp lửa mà đêm say, Mị vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay như thế. Ta cứ tưởng như sức sống trong Mị như ngọn đèn cạn dầu, chỉ bùng lên rồi tắt ngấm. Nhưng không, phần trên mới chỉ là phần chuẩn bị cho một bước đột phá. Tâm hồn tê dại của người đàn bà ấy đột ngột bùng lên thật mãnh liệt: cắt dây cởi trói cứu A Phủ và tự giải thoát cho chính mình.


Hành động của Mị vừa mang tính tự phát, vừa có ý thức tự giác. Tự phát bở sự việc đến nhanh, đột ngột và Mị không kịp tính trước sẽ đi đâu, làm gì, ngay cả việc có chạy theo A Phủ hay không Mị cũng chỉ quyết định ngay sau khi cắt dây cởi trói, đứng lặng một phút trong bóng tối. Tô Hoài thật tinh tế và bản lĩnh khi sắp xếp chi tiết này bởi nếu không khéo rất có thể có hai khả năng xảy ra. Một là Mị trốn chồng vì khổ quá, hai là Mị bỏ chồng theo A Phủ vì A Phủ là người mà bao cô gái mong ước có được. Hai khả năng này đều hạ thấp giá trị nhân vật. Mị cắt dây trói cho A Phủ nhưng không hề chạy theo. Chỉ sau khi định thần lại nỗi hoảng sợ đã đẩy bàn chân Mị vùng chạy theo một cách tự nhiên.


Tuy vậy hành động của Mị chính là kết quả tất yếu của một con người có sức sống tiềm tàng. Hành động này có nguồn gốc từ bản chất của một người con gái hiếu thảo, yêu đời, ham sống trong quá khứ. Từ cái “buồn rười rượi”, từ cách uống rượu “ừng ực từng bát một” và ngay cả ý định tự sát của Mị nữa. Trực tiếp hơn là những giây phút Mị rạo rực nghe tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân. Sâu xa hơn nữa là vì Mị cảm thấy đau đớn giống như những lần Mị bị trói, Mị không thể để một con người vô tội phải chết dần trong đau đớn.


Tất cả được khởi dậy đúng lúc Mị trông thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen sạm lại của A Phủ”. Giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại, nhận ra mình, xót xa cho mình, nhận ra sự tàn ác của nhà thống lí, tất cả đã khiến cho hành động của Mị mang tính tất yếu.


Tất nhiên Mị cũng rất lo lắng, hoảng sợ. Mị sợ mình bị trói thay vào cái cọc ấy. Khi đã chạy theo A Phủ, cái ý nghĩ ấy vẫn còn đuổi theo Mị: “Ở đây thì chết mất”. Nỗi lo lắng của Mị cũng là một khía cạnh của lòng ham sống, tiếp thêm sức mạnh cho Mị vượt lên số phận. Những vẻ đẹp đặc biệt là sức sống tiềm tàng trong tâm hồn của người con gái nơi núng rừng Tây Bắc đã làm cho truyện ngắn tỏa ngát hương thơm, thấm đẫm trữ tình. Lại một minh chứng cho tài hoa của người nghệ sĩ đã có công khai phá một vùng đất mới.


Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” sẽ vượt qua thách thức của thời gian để sống mãi với tâm hồn bạn đọc không chỉ bởi nhà văn đã đưa vào những “ý thơ trong văn xuôi” mà hơn hết ta cảm nhận được tấm lòng nhân đạo cao cả, luôn sẵn sàng “nâng giấc cho những kẻ cùng đường tuyệt lộ”.

Bài văn phân tích chất thơ trong truyện ngắn
Bài văn phân tích chất thơ trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" số 1
Bài văn phân tích chất thơ trong truyện ngắn
Bài văn phân tích chất thơ trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" số 1

Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy