Bài văn cảm nhận về hình ảnh bà Tú trong bài "Thương vợ" số 4

Tác giả Trần Tế Xương còn được gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định. Bản thân ông mặc dù đã rất cố gắng nhưng không thành công trên con đường hoa cử lại chỉ đạt đến bậc Tú tài. Về sự nghiệp sáng tác, ông có một gia tài “Thơ” gồm trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ Nôm gồm hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong đó tác phẩm “Thương vợ” của ông thuộc đề tài nói về người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại và đó cũng là điều minh chứng cho tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với người vợ của mình.


Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần: đề – thực – luận – kết. Hình ảnh của bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” dưới cái nhìn của ông Tú ở câu mở đầu bài thơ thể hiện rất rõ cái chông chênh, nguy hiểm trong nghề buôn bán của bà:


“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng”


Mặc dù công việc của bà Tú là buôn bán nhưng việc buôn bán đó lại không diễn ra ở một khu chợ bình thường mà lại là ở mom sông, là một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm việc này không có định lượng mà là quanh năm, ta thấy công việc của bà phải làm là một công việc liên tục lặp đi lặp lại, khép kín không có thời gian để bà nghỉ ngơi, không kể khó khăn của thời tiết cái giá rét của mùa đông hay cái nóng bức của mùa hè. Khi nghe đến câu thứ hai, người đọc phần nào cảm nhận được phong cách viết thơ hóm hỉnh của Tú Xương. Dùng lời thơ của mình, ông không chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải nuôi “năm con” mà còn gánh thêm cả người chồng đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói chơi tao nhã của nhà nho như Tế Xương. Ông tự cho mình là một “gánh” và "năm con" là một “gánh” hai gánh đó đè nặng trên vai bà Tú và rồi còn tự tách hạ một mình mình đứng cuối câu, có vẻ như ông đang cho mọi người biết ông như một kẻ ăn bám lấy vợ và cũng cần đến sự chăm lo của vợ giống như các con mình.


“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”


Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “thân cò”, một hình ảnh hay được dùng để ví von về số phận người phụ nữ Việt trong thời kì phong kiến, họ có một số phận vô cùng cực khổ. Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đặt từ “lặn lội” đứng trước chủ thể “thân cò” kết hợp với cụm từ “quãng vắng”, có một sự đối lập ở hai câu ba và câu bốn giữa “lặn lội” và “eo sèo”; “khi quãng vắng” – “buổi đò đông” cho thấy nỗi vất vả một thân, một mình của bà Tú. Một mình bà vừa phải gánh vác công việc để kiếm tiền đảm bảo cuộc sống vừa đủ cho chồng, cho các con lại vừa phải lo toan việc gia đình. Bốn câu thơ nói lên cuộc sống bấp bênh, vất vả của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn chăm lo chu đáo cho gia đình. Nhà thơ đã thể hiện không chỉ sự kính nể mà còn có phần thán phục đối với hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ”, một hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé. Từ đó ông tiếp tục cực tả nỗi vất vả, đơn chiếc nhưng đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vô tích sự, không hoàn thành trọng trách làm chồng, làm cha mà còn làm khổ vợ con.


“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”


Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” là những câu chữ nói nên số phận cực khổ của một con người. Thành ngữ ở câu năm muốn nói đến “duyên” chỉ có một mà nợ đến những hai, gánh nặng thì quá nhiều mà hạnh phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ ẩn dụ cho nỗi vất vả, nhọc nhằn cùng với nghệ thuật đối “năm nắng mười mưa” với “dám quản công” ẩn chứa một sự hi sinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh bà Tú không chỉ vất vả, đảm đang, nhẫn nại mà còn hi sinh một cách âm thầm, lặng lẽ. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” đã khắc họa thành công chân dung bà Tú là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đến đây không chỉ còn là thương xót, mà còn cả một sự thương cảm thấm thía. Ở những câu thơ cuối là hình ảnh của chính nhà thơ qua lời trần thuật về bà Tú.


“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”


Hai câu cuối Tế Xương đã tự “chửi” thói đời sinh ra loại người như ông. Ông muốn ám chỉ cả những người giống ông trong xã hội thời bấy giờ. Dù là người chồng nhưng lại chẳng gánh vác được gia đình mà ngược lại còn làm gánh nặng thêm cho vợ con.


Mặc dù rất yêu thương vợ nhưng lại không thể đỡ đần, lo toan giúp vợ dù chỉ một phần nhỏ công việc, vì cái phép tắc lễ giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, khiến bà Tú phải chịu nhiều vất vả, gian truân trong cuộc đời. Một niềm hạnh phúc duy nhất khi bà còn sống là đã được đi vào thơ ca của ông Tú với tất cả niềm yêu thương, trân trọng của một người chồng. Đây là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương, thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” đã lột tả rõ một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy