Bài văn cảm nhận về bức tranh thiên nhiên trong "Tràng giang" số 8

Từ muôn đời nay, thiên nhiên vẫn luôn là người bạn tri âm tri kỷ của hồn mộng thi sĩ. Thiên nhiên gắn bó, đồng cảm và sẻ chia với thi nhân mọi xúc cảm cũng như nỗi lòng. Nếu như hoa lá cỏ cây say mê và rạo rực cùng tâm hồn sôi nổi Vội vàng của Xuân Diệu, trăng và đêm chao đảo điên cuồng cùng nỗi đau của Hàn Mặc Tử… và sông trời mây nước trong vũ trụ này sầu “ảo não” với nỗi buồn “vạn kỷ” của tâm hồn Huy Cận. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang rất đẹp, sinh động nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn tủi cô đơn của người nghệ sĩ.


Sự bao la rợn ngợp của sông nước


Bài thơ mở ra một bức tranh thiên nhiên Tràng giang rất đẹp, bàng bạc một nét đẹp cổ xưa. Vẫn là đề tài quen thuộc ấy, từ những thi liệu và bút pháp nghệ thuật vốn có trong thơ cổ, nhà thơ của Lửa thiêng đã vẽ nên trên nền trời mây, sông nước mênh mông vô cùng, vô tận những sự vật nhỏ bé, đặc trưng.


Trong quá trình phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang, có lẽ điều khiến người đọc ấn tượng hơn cả là những hình ảnh như sóng gợn, thuyền trôi, gió đìu hiu, bến cô liêu, bèo dạt, mây cao, núi bạc, chim nghiêng… gợi nên cái hồn thiên nhiên của thơ ca từ bao đời này. Có lẽ, nếu cứ nhìn người ta vẫn ngỡ đó là không gian của cảnh đẹp tiêu sơ và vắng lặng vốn thấy trong thơ Đường. Thế nhưng, bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện ra trước hết là khung cảnh rợn ngợp bao la của đất trời.


“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”


Mở đầu bài thơ là hình ảnh những con sóng nối tiếp, nối tiếp nhau đến tận chân trời. Sự kéo dài của những cơn sóng như bất tận tạo cảm giác dường như không gian cũng được mở rộng ra. Từ “gợn” được tác giả dùng thật khéo không chỉ gợi được sự chuyển động của sóng nước mà còn gợi được một cảm giác mơ hồ, nhẹ nhàng nhưng day dứt xao xuyến mãi không nguôi như những cơn sóng vẫn miệt mài ngày đêm xô vào bờ. Từ “gợn” ấy ta cũng từng bắt gặp trong ca dao


“Chiều chiều bước xuống ghe buôn

Sóng bao nhiêu gợn dạ em buồn bấy nhiêu”

(Ca dao)


Con sóng của đại dương hay chính là con sóng của tâm hồn đang xao xuyến? Cảm giác mơ hồ ấy ngày càng mạnh mẽ hơn để rồi bộc bạch trực tiếp thành một nỗi niềm “buồn điệp điệp”. Từ láy “điệp điệp” thường được dùng để diễn tả cảnh núi non hùng vĩ hay khung cảnh hùng tráng trong Việt Bắc.


“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

(Việt Bắc – Tố Hữu)


Còn trong câu thơ của Huy Cận, bức tranh thiên nhiên Tràng giang với “điệp điệp” lại được dùng để chỉ nỗi buồn. Nỗi buồn vốn là một trạng thái cảm xúc vô hình chỉ có thể cảm thấy nhưng trong kết hợp này nỗi buồn ấy lại có hình có khối. Nỗi buồn ấy theo con nước mà tràn đầy. Đứng trước khung cảnh rợn ngợp của thiên nhiên ấy mấy ai mà không thấy buồn mấy ai mà không thấy mình nhỏ bé bất lực.


Bởi lẽ đó mà “con thuyền xuôi mái”. Con thuyền dường như cũng thấy mình bất lực trước dòng chảy. Dù có cố gắng mấy nhưng cuối cùng con thuyền vẫn xuôi theo dòng nước không thể cưỡng lại được. Đó cũng là sự bất lực của con người trước dòng chảy của thời gian. Giữa sự chảy trôi tuyến tính của thời gian, sự xuất hiện của con người chỉ như mây khói thoáng qua.


Phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang, ta thấy từ “song song” bỗng nhiên như vạch ra ranh giới giữa con thuyền và sóng nước gợi ra một cảm giác về sự chia li. Ở hai dòng thơ đầu, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng tinh tế trong cách sử dụng từ láy. “Điệp điệp” đối với “song song”. Không chỉ đối về mặt thanh điệu mà còn đối với nhau về ý. Cả hai cùng gợi ra một không gian rộng lớn chất chứa nỗi buồn nhân thế.


“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”


Thuyền và nước vốn gắn liền nhau nhưng trong khổ thơ đầu lại chia lìa nhau. Nếu ở câu thơ trên, thuyền và nước dường như “song song” thì ở dòng thơ này thuyền và nước lại tách rời nhau mỗi nơi mỗi ngả. Sự chia li của cảnh vật hay cũng chính là sự chia li của lòng người. Nghệ thuật tiểu đối “thuyền về nước lại” càng nhấn mạnh thêm nỗi niềm ấy. Nếu ở trên là “buồn điệp điệp” thì bây giờ lại là “sầu trăm ngả”. Ở trạng thái “sầu” ta bắt gặp một cảm xúc có phần mạnh mẽ, mãnh liệt và ám ảnh hơn “buồn”. Như trong câu thơ của Nguyễn Du “Sầu đông càng lắc càng đầy”.


Nỗi sầu ấy không chất chồng chất đống mà lan tỏa ra khắp “trăm ngả”. “Trăm” là một con số ước lệ chỉ số lượng nhiều. “Trăm ngả” không phải là hướng chảy của dòng nước mà là của nỗi sầu. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn thể hiện ở nỗi sầu theo con sóng xô dạt đến tận chân trời xa. Con sóng lòng bất tận ấy ta cũng từng bắt gặp trong vần thơ nhẹ nhàng đằm thắm nhưng không kém phần da diết của Xuân Quỳnh.


“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

(Sóng – Xuân Quỳnh)


Giữa không gian rộng lớn mênh mông, không chỉ có sự xuất hiện nhỏ bé của chiếc thuyền mà bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn được điểm tô thêm bằng sự xuất hiện của cành củi khô.


“Củi một cành khô lạc mấy dòng”


Kết cấu đảo ngược đã nhấn mạnh thêm sự xuất hiện của cành củi. Đây là một hình ảnh độc đáo. Khi nói về sự nhỏ bé của kiếp người, thi nhân thường dùng hình ảnh chiếc thuyền


“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh

Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”

(Tự tình III – Hồ Xuân Hương)

Hay như tác giả dân gian so sánh với:

“Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”

(Ca dao)


Nhưng Huy Cận lại thể hiện số phận nhỏ bé của con người qua hình ảnh cành củi. Bản thân hình ảnh cành củi đã gợi lên một sự nhỏ bé chỉ đành lênh đênh trôi nổi trên dòng nước không có bến bờ để neo đậu nhưng đó còn là một cành củi khô. Không chỉ cô đơn mà còn là một sự khô héo đến thiếu sức sống.


Lần đầu tiên trong thơ văn xuất hiện hình ảnh cành củi khô tuy đơn sơ nhưng lại giàu sức gợi. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện lên với hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ, cô quạnh mênh mông trên sóng nước cũng là hình ảnh con người bơ vơ đến tận cùng giữa vòng xoáy của cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng của thi nhân khi đứng trước dòng sông rộng lớn bao la mà nghĩ về cuộc đời. Sự cô đơn không chỉ xuất hiện ở nơi dòng sông rộng lớn mênh mông mà còn xuất hiện ở khung cảnh hai bên bờ sông.


“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”


Bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện lên với cảnh vật đa dạng và phong phú. Không gian cũng được mở rộng hơn. Từ không gian hẹp của cồn nhỏ, chợ chiều đến không gian rộng lớn của sông dài trời rộng. Tất cả ngơ như đầy sức sống nhưng cuối cùng lại chìm trong sự tịch liêu. Từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi lên sự buồn bã quạnh vắng.


Nghệ thuật tăng cấp càng khiến cho không gian tịch mịch hơn. Chợ đã tàn người cũng tàn vốn đã buồn chợ chiều nay càng buồn hơn. Âm thanh chợ tàn ấy vang vọng từ xa đến nơi đây. Từ “đâu” vang lên vừa như một âm thanh mơ hồ xa xôi vừa như một là tự hỏi âm thanh ấy từ đâu mà vang vọng lại.


Dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện nhưng không tương vui giòn giã, thúc giục như bản hòa ca của cuộc sống mà im vắng. Nghệ thuật tiểu đối lại một lần nữa phát huy hiệu quả trong kết hợp đặc biệt “nắng xuống trời lên”. Nắng và trời bỗng chốc như tách rời nhau để mở rộng không gian. “Xuống” và “lên” là hai chiều hướng ngược nhau đặt trong cùng vế đối khiến cho không gian như được kéo dãn ra cùng với nỗi niềm của con người.


Có phải vì lẽ đó mà không gian trở nên “sâu chót vót”. Từ láy “chót vót” vốn được dùng để chỉ độ cao nhưng Huy Cận lại dùng từ láy này để gợi mở độ sâu. Phải chăng đây là một dụng ý nghệ thuật của thi nhân. Cách kết hợp ấy đã khiến không gian của bức tranh thiên nhiên Tràng giang như được đẩy ra hết mọi chiều kích của vũ trụ. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng. Nỗi buồn tựa hồ thấm đẫm trong cả không gian.


“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”


Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn hiện lên với hình ảnh bèo được dùng để diễn tả số phận con người bấp bênh vô định. Và Huy Cận cũng dùng hình ảnh cánh bèo trong thơ mình để một lần nữa nhấn mạnh sự nhỏ bé bấp bênh của đời người. Bèo dạt không phải nương theo cơn sóng để sinh tồn là mặc cho cơn sóng xô đẩy. Không phải là một cánh bèo mà cả là một hàng. Hàng nối hàng nối tiếp nhau nhưng đau lòng hơn đó không là cuộc sống của một kiếp người mà là của một bộ phận không nhỏ thanh niên trong hoàn cảnh xã hội bế tắc đương thời.


Từ láy mênh mông đứng đầu dòng thơ diễn tả được sự rộng lớn bao la của không gian. Điệp từ “không” xuất hiện liên tiếp trong hai dòng thơ gợi sự vắng vẻ cô đơn tuyệt đối. Thi nhân như từ chối mọi mối quan hệ, dường như tự cô lập mình với cuộc đời xung quanh và cũng đồng thời phủ nhận mối liên kết giữa người với người.


Chính vì không có mối liên kết nào mà con người đứng trước không gian rộng lớn dễ rơi vào trạng thái cô đơn. Từ láy lặng lẽ đứng đầu câu càng tăng thêm sự vắng lặng đến nao lòng của không gian. “Xanh”, “vàng” là những gam màu tươi sáng. Sự xuất hiện này điểm tô thêm những gam màu tươi sáng cho bức tranh thiên nhiên nhưng không xua đi được nỗi cô đơn giá băng của lòng người.


Tiếp đến là khung cảnh thiên nhiên Tràng giang ở hai bên bờ, tầm mắt của thiên nhiên lại hướng lên trên và cũng như phóng tầm nhìn ra xa hơn nơi chân trời để thấy


“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”


Câu thơ mở đầu bằng từ láy “lớp lớp” diễn tả số lượng nhiều. Những đám mây như chất chồng chất đống vào nhau hết lớp này đến lớp khác. Huy Cận đã sử dụng tinh tế động từ “đùn”. “Đùn” không chỉ diễn tả sự chồng chất của đối tượng mà còn diễn tả được sức sống như đang căng tràn xô đẩy nhau, gợi được vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên – núi mây khổng lồ được vạt nắng chiếu vào tạo thành hình ảnh núi bạc. Ta cũng từng bắt gặp từ đùn ấy trong ý thơ của Nguyễn Trãi


“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

(Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi)


Giữa đám mây bao la là cánh chim nhỏ bé đối lập với không gian rộng lớn. Thế nhưng, giữa hai đối tượng không có từ liên kết như một khoảng trống giữa câu thơ gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn thể hiện ở cánh chim như đang chở nặng bóng chiều, vì bóng chiều mà cánh chim bỗng trở nên nhỏ bé hơn? Hay vì cánh chim chao lượn như kéo cả bóng chiều? Dù hiểu theo cách nào ta vẫn thấy cánh chim cô đơn giữa một khoảng không mênh mang. Cánh chim bơ vơ lạc lõng hay chính lòng người cũng hoang mang tìm kiếm một điểm tựa. Một khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ xuất hiện. Trên phông nền thiên nhiên là cả một tấm lòng dành cho đời.


“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”


Lòng quê chính là tình cảm thiêng liêng dành cho quê hương đất nước. Câu thơ gợi lên cảm giác xốn xang, không dứt, trở đi trở lại như một nỗi ám ảnh. Từ đó cho thấy tình yêu với đất nước quê hương như lan tỏa thấm đãn theo từng con nước. Nỗi nhớ vì vậy mà trở nên da diết hơn.


Thôi Hiệu nhìn thấy làn khói sóng mờ ảo trên sông mà nhớ đến quê nhà. Còn Huy Cận không cần một dấu hiệu gợi nhắc mà tình cảm ấy lại ùa về tràn ngập tâm hồn. Tiếng sóng của không gian biển lớn bao la hay chính là tiếng sóng lòng của nhà thơ, cuồn cuộn không nói nên lời.


Đây chính là nỗi niềm của một người đứng trên quê hương mà lại nhớ về quê hương. Và đó cũng là nguyên nhân sâu xa cũng nỗi cô đơn, sự bất lực trước thực tại. Liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn đất nước lúc bấy giờ ta càng thấu hiểu thêm tâm trạng của thi nhân khi đứng trước cảnh sông dài trời rộng nhưng bến lại là bến bờ quạnh vắng cô liêu.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy