Top 7 Bài văn phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu (Ngữ văn 10) hay nhất

  1. top 1 Bài tham khảo số 1
  2. top 2 Bài tham khảo số 2
  3. top 3 Bài tham khảo số 3
  4. top 4 Bài tham khảo số 4
  5. top 5 Bài tham khảo số 5
  6. top 6 Bài tham khảo số 6
  7. top 7 Bài tham khảo số 7

Bài tham khảo số 6

Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều góp phần lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Trong thơ văn cổ Nước Ta có 1 số ít tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng, nhưng Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu được xếp vào hàng siêu phẩm. "Phú sông Bạch Đằng" là một tác phẩm thể hiện tình yêu quê nhà, niềm tự hào dân tộc bản địa.

Tác phẩm này được viết bằng chữ Hán, sau được rất nhiều tác giả khác nhau dịch ra. Bài viết này dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.Mở đầu bài phú là là một khung cảnh hùng vĩ, bát ngát với những Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt và một tâm hồn phóng khoáng, tự do của lữ khách :

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết

Nhân vật "khách "ở đây không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Với một tâm hồn phóng khoáng, nhà thơ hiện lên là một tao nhân mặc khách với bầu rượu túi thơ ngao du đây đó. Vậy mà chí tang bồng vẫn chưa thỏa thích :

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết

Thế nhưng, mặc khách đi nhiều, biết nhiều không chỉ đơn thuần là để ngắm cảnh tiêu giáo mà quan trọng hơn là đi để hiểu thêm về đời, về mình. Khi đến sông Bạch Đằng, mặc khách chính là tìm về nơi cha ông ta đã lập chiến công to lớn để chiêm ngưỡng và thưởng thức, ngợi ca và suy ngẫm.Sông Bạch Đằng trong bài phú trước hết là một con sông với cảnh sắc hùng vĩ : Bát ngát sóng kình muôn dặm. Vì rộng "bát ngát "và dài "muôn dặm "vì vậy sông Bạch Đằng không chỉ là đại giang mà còn là trường giang với bao lớp sóng cuồn cuộn triều dâng. Thế nhưng, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng : mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ.Cảnh đẹp và thơ mộng nhưng lữ khách ở đây lại cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Đây là nơi diễn ra bao trận đánh, tận mắt chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những quyết tử, mất mát. Nhưng "giáo gãy ”, "xương khô ”, "trời nước ”, "lau lách vắng ngắt "như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Chính cho nên vì thế mà người thời điểm ngày hôm nay không khỏi tiếc thương cho những anh hùng đã khuất :

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu

Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng" là một bài ca yêu nước, tràn trề ý thức tự hào dân tộc bản địa. Với bố cục tổng quan ngặt nghèo, nhịp điệu biến hóa linh động phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm hứng, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về giang sơn hùng vĩ và biết ơn thâm thúy thế hệ cha ông đã gìn giữ cho quốc gia thanh thản ngày hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao quý nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Nước ta.Hầu như mỗi nhà thơ, mỗi ngòi bút đều tìm về với một địa danh lịch sử của dân tộc để tìm cảm hứng cho mình, Bạch Đằng có thể nói là địa điểm lịch sử hào hùng mà rất nhiều bước chân nghệ sĩ đã đến khai thác, kiếm tìm, trong đó, Trương Hán Siêu đã để lại dấu ấn của riêng mình qua bài phú Phú sông Bạch Đằng:


“Giương buồm trong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt:

Khách cũng là một con người đi nhiều, biết rộng:

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ củng nhiều,

Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.


Thú vui của những bậc tao nhân mặc khách, ấy là bầu bạn với thiên nhiên, uống rượu thưởng trăng, ngâm thơ. Ở đây, nhân vật trữ tình cũng mang trong mình niềm yêu say thiên nhiên, khát khao được chu du sơn thủy non nước hữu tình. Ngay từ câu thơ mở đầu, chất hào hoa, lãng mạn, tâm hồn thi sĩ đã được bộc lộ qua cách diễn đạt rất đỗi tài tình của nhà thơ. Chơi vơi, lướt bể, mải miết, những từ ngữ đó góp phần tạo nên cảm nhận cho người đọc về phong thái, tư thế, tâm thế của nhân vật trữ tình, hẳn là một vị lữ khách có chí hải hồ, thích ngao du sơn thủy, mà bầu bạn, bầu thơ túi rượu thân tình cùng gió trăng thiên nhiên. Các từ chỉ thời gian xuất hiện tần xuất kế tiếp đối nhau “sớm, tối”, tạo nên sự xuyên suốt, gắn kết cho hai câu thơ.


Tiếp đó, bằng cách liệt kê các địa danh nổi tiếng, nhân vật trữ tình phần nào gián tiếp cho thấy trải nghiệm sâu rộng, phong phú của bản thân mình. Đó, phần nào cũng là ý thức thị tài của kẻ sĩ thời xưa, họ luôn ý thức về địa vị, học thức và vốn sống, vốn trải nghiệm, du lãm sâu rộng của mình, từ đó làm nên nét riêng của người trí thức lúc bấy giờ.


Nhưng để ý thấy một điểm đặc biệt, đó là dù đi nhiều, biết nhiều, nhưng trong thú tiêu hao, khách chỉ học có Tử Trường, tức là Tư Mã Thiên, một nhà sử học danh tiếng lẫy lừng, người đã từng bôn ba hơn 20 năm chu du thiên hạ để viết nên cuốn sử ký toàn thư lưu danh ngàn thế hệ. Không chỉ thế, cái sâu xa của nhân vật trữ tình khi nhắc tới Tử Trường là ở chỗ, phải chăng khách nói đến Tử Trường để bày tỏ tâm hồn đồng điệu của mình với người xưa. Đi xa không phải chỉ để thỏa thú tiêu dao, xê dịch, mà còn là một dịp lắng mình vào những nét đẹp của các địa danh lịch sử dân tộc, để chiêm ngưỡng, và hồi tưởng về quá khứ hào hùng của cha ông.


Mở đầu bài phú, nhân vật khách mở ra một cảnh tượng rộng lớn, hùng vĩ về những địa điểm mình đã đặt chân, nhưng hầu hết chúng đều khó có thể hiện hưu, hiện thực hóa trong tâm hồn người đọc, bởi lối viết phóng khoáng thiên về gợi, về liệt kê để gia tăng sự hào phóng hơn là đi vào điểm nhấn chi tiết. Do đó, ta có thể hiểu thêm về dụng ý của nhà thơ ở đây, đó là mở đầu bài phú là cảm hứng tạo nên thực ra chỉ là sự chuẩn bị một không khí thích hợp trước khi đi vào thế giới hùng vĩ của sông Bạch Đằng lịch sử.


Nét vẽ đầu tiên là vẻ đẹp hùng vĩ, bát ngát vô tận của con sông lịch sử, hào hùng:

“Bát ngát sóng kình muôn dặm

Thướt tha đuôi trĩ một màu

Nước trời một sắc

Phong cảnh ba thu”


Nhưng ngay khi vừa khiến người đọc choáng ngợp bởi không gian rộng lớn, bởi vẻ đẹp hùng vĩ nơi đây, nhân vật khách lại đồng thời làm dấy lên trong lòng người đọc những cảm xúc ngậm ngùi, lắng đọng về thế hệ đã ngã xuống tại nơi đây:

“Sông chìm giáo gãy

Gò đầy xương khô

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”


Để từ đó, ta thấy việc chu du núi non không phải để thỏa thú xê dịch, để làm bạn với bầu thơ túi rượu, với thiên nhiên rộng lớn kì vĩ, mà nó còn là cách để ta tìm về với những di tích lịch sử, để đồng điệu, đồng cảm, trân trọng những người đã ngã xuống vì giang sơn nghìn thu còn mãi. Cảm xúc hai câu thơ cuối ở trên như một nốt trầm, nốt lặng làm trầm xuống nhịp điệu của cả mạch thơ, đó cũng đồng thời là sự hoài tưởng, nuối tiếc, xót xa cho những hi sinh không gì tả xiết của bao thế hệ đã qua.


Khổ thơ đầu bài Phú sông Bạch Đằng đã gợi lên trong người đọc những mạch cảm xúc đan quyện vào nhau, vừa như được mở rộng tầm mắt bởi non kỳ thủy tú của giang sơn, vừa tha thiết lắng sâu với sự hy sinh của người chiến sĩ hào hùng đã ngã xuống vì dân tộc.

Hình minh hoạ
Hình minh hoạ

Top 7 Bài văn phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu (Ngữ văn 10) hay nhất

  1. top 1 Bài tham khảo số 1
  2. top 2 Bài tham khảo số 2
  3. top 3 Bài tham khảo số 3
  4. top 4 Bài tham khảo số 4
  5. top 5 Bài tham khảo số 5
  6. top 6 Bài tham khảo số 6
  7. top 7 Bài tham khảo số 7

Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy