Top 15 bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 ngắn gọn, chọn lọc hay nhất
Bài viết dưới đây Toplist đã tổng hợp các bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 ngắn gọn, chọn lọc hay nhất, các bạn cùng tham khảo để rèn luyện cách viết cho mình ... xem thêm...nhé!
-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 1
Ngày ngày, ta dạo chơi trong những cánh rừng xinh đẹp, cho đến một hôm mải mê đi tìm những bông hoa đẹp ta đã lạc mất lối về. Giữa lúc đang băn khoăn, lo lắng thì ta bắt gặp một chàng trai cao to, tuấn tú. Chàng tới hỏi han về tình cảnh và vui vẻ đưa ta ra khỏi cánh rừng đó.
Sau nhiều lần gặp gỡ, ta biết được chàng là Lạc Long Quân, mình rồng, thường ở dưới nước, thỉnh thoảng mới lên sống ở cạn, chàng rất khoẻ mạnh và thường giúp đỡ dân làng diệt trừ yêu tinh, dạy dân cách trồng trọt.
Cảm phục trước con người tài đức ấy, chẳng bao lâu sau, ta và Lạc Long Quân đã nên vợ nên chồng. Cuộc sống của ta và chàng vô cùng hạnh phúc, ngày ngày ta cùng chàng dạo chơi khắp nơi, lúc trên rừng lúc xuống biển.
Một thời gian sau, ta có mang cả hai gia đình vô cùng mừng rỡ mong đợi đứa cháu đầu tiên ra đời. Còn Lạc long Quân chàng cũng vô cùng hạnh phúc chờ đợi đến ngày ta sinh nở. Vào một buổi sáng đẹp trời ta trở dạ. Tất cả mọi người hồi hộp, khấp khởi mong đợi. Thế nhưng thật lạ thay, ta lại sinh ra một cái bọc trăm trứng. Một thời gian sau, bọc nở ra một trăm người con trai. Chúng lớn nhanh như thổi, đứa nào cũng đẹp đẽ, khôi ngô khác thường.
Hàng ngày, vợ chồng con cái ta dắt nhau lên rừng ngắm hoa, tìm cỏ và có lẽ cuộc sống sẽ mãi như vậy nếu như ta không nhìn thấy nét mặt phảng phất buồn của Lạc Long Quân. Thỉnh thoảng ta lại thấy chàng đứng trên ngọn núi cao mắt dõi ra phía biển khơi, nơi có gia đình chàng đang mong đợi. Thế rồi một hôm Lạc Long Quân quyết định trở về gia đình của mình, để lại ta vò võ một mình với bầy con nhỏ. Chàng đi rồi ta ngày đêm mong đợi. Và lũ trẻ cũng không ngớt lời hỏi ta:
- Cha đâu hả mẹ? Bao giờ cha trở về chúng con?
Ta chẳng biết trả lời chúng ra sao vì chàng đi mà không hẹn ngày trở về. Hàng ngày mẹ con ta dắt nhau ra bờ biển ngóng về phía biển khơi mong mỏi bóng chàng trở về nhưng càng trông chờ càng chẳng thấy. Cho đến một ngày ta quyết định gọi chàng trở về và than thở:
- Chàng định bỏ thiếp và các con mà đi thật sao? Chàng có biết mẹ con thiếp ngày đêm mong đợi chàng?
Nghe ta hỏi như vậy Lạc Long Quân cũng rất buồn rầu và nói:
- Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ ở cạn, người ở nước, tính tình tập quán khác nhau, khó mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương.
Nghe chồng nói vậy ta giật mình phản đối:
- Không! Thiếp không muốn gia đình ta mỗi người một ngả. Thiếp không muốn xa các con, xa chàng.
Lạc Long Quân lại nói:
- Chúng ta đã từng sống hạnh phúc yêu thương, gắn bó với nhau, bởi thế ta tin rằng khoảng cách chẳng thể nào chia lìa được chúng ta, và sau này có khó khăn hoạn nạn cùng nhau chia sẻ giúp đỡ là được rồi.
Nghe lời khuyên giải của Lạc Long Quân ta thấy cũng có lí nên đành nghe theo. Ngày chia tay, nhìn chàng và năm mươi đứa con xa dần lòng ta buồn vô hạn, vậy là từ nay ta phải xa chúng thật rồi, biết bao giờ mới gặp lại nhau đây.
Người con trai cả của ta được tôn lên làm vua lấy hiệu là Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Còn lại, ta chia cho mỗi con một vùng đất để tự lập ra châu huyện, lập nên các dân tộc: Tày, Nùng, H’Mông, Thái, Mèo, Dao,… với những phong tục tập quán riêng, vô cùng phong phú.
Thế là từ bấy giờ, vợ chồng con cái chúng ta xa nhau nhưng ta và Lạc Long Quân vẫn không quên tình cũ, nhất là các con của ta, dù không ở gần nhau nhưng vẫn gắn bó keo sơn. Mỗi khi gặp khó khăn hoạn nạn chúng lại đoàn kết giúp đỡ nhau vượt qua.
Các cháu biết không, chúng ta đều là anh em một nhà, có chung nguồn gốc con lạc cháu hồng, bởi vậy các cháu cần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, các cháu nhé!

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 2
Ngày xưa có một em bé rất thông minh, tên em là Mã Lương. Cha mẹ em mất sớm. Em thích học vẽ từ nhỏ nhưng không có tiền để mua bút. Hàng ngày em tập vẽ bằng cách đi kiếm củi, em lấy que vạch xuống đất vẽ những con chim bay trên trời. Lúc cắt cỏ, em nhúng tay xuống nước vẽ con cá con tôm. Khi về nhà, em vẽ mọi đồ đạc lên tường.
Mã Lương học vẽ rất say mê và em tiến bộ rất mau. Em vẽ cái gì cũng giống như thật nhưng chỉ khổ nỗi là không có bút.
Một hôm, em nằm mơ thấy có một ông già râu tóc bạc phơ hiện ra đưa cho em một chiếc bút và nói:
- Đây là bút thần, nó sẽ giúp con nhiều.
Mã Lương vui sướng reo lên.
- Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông, cảm ơn ông!
Mã Lương chưa kịp nói hết lời ông già đã biến mất. Khi tỉnh dậy, em thấy mình đang cầm cây bút thần đó và rất lấy làm lạ.
Mã Lương cầm cây bút vẽ con chim, chim tung cánh hay, vẽ con cá, cá trườn xuống nước. Mã Lương rất thích, rồi em cầm cây hút này đi vẽ cho những người nghèo khó trong làng, nhà nào thiếu cái gì Mã Lương vẽ cho cái đấy.
Chuyện đến tai tên địa chủ, hắn liền sai người đến bắt Mã Lương về nhà vẽ theo ý hắn. Mã Lương tính tình khảng khái nên không vẽ bất cứ cái gì mà tên nhà giàu độc ác yêu cầu. Hắn tức giận nhốt em vào trong chuồng ngựa. Vài hôm sau, hắn cứ tưởng là Mã Lương chết vì đói và lạnh. Lúc nhìn thì thấy Mã Lương đang ăn bánh và ngồi cạnh lò sưởi, hắn tức quá, bắt bọn đầy tớ đến giết Mã Lương để lấy cây bút thần.
Mười tên đầy tớ xông vào chuồng ngựa thì Mã Lương đã vượt qua tường bằng chiếc thang mà em vẽ. Thoát khỏi nhà tên địa chủ, Mã Lương vẽ một con ngựa và nhảy lên mình ngựa phóng đi. Chẳng bao lâu có tiếng ồn ào ở sau lưng, Mã Lương biết là bọn chúng tới gần, em giương cung bắn vào lên địa chủ và cưỡi ngựa phi thẳng. Sau mấy ngày đêm em dừng lại bên thị trấn nhỏ. Hàng ngày em vẽ tranh để đem bán sống qua ngày nhưng đều cố tình vẽ dở dang. Một hôm khi vẽ một con chim không có mắt, em vô tình đánh rơi giọt mực, mực rơi đúng vào chỗ mắt chim, con chim tung cánh bay. Việc đó làm chấn động đến cả thị trấn, rồi đến tai vua, vua bắt Mã Lương vào cung để vẽ. Mã Lương biết vua là kẻ tham lam nên em không vẽ, vua bảo em vẽ con rồng thì em vẽ con cóc ghẻ, vua bảo em vẽ con phượng thì em vẽ con gà trụi lông, nhà vua tức tối nhốt Mã Lương vào ngục và cướp cây bút thần. Nhà vua vẽ núi vàng song khi xem lại thì không phải là quả núi vàng mà là những tảng đá lớn. Rồi lão lại vẽ tiếp những thỏi vàng. Một viên chưa đủ, hắn còn muốn vẽ một thỏi vàng dài thật là dài, lúc nhìn lại thì không phải là thỏi vàng mà là một con mãng xà đang bò lại phía hắn. May có người đến cứu, nếu không thì nó đã cắn chết nhà vua. Biết nếu không có Mã Lương thì sẽ không làm gì được, vua đành thả Mã Lương ra và hứa sẽ gả công chúa cho. Mã Lương giả vờ đồng ý. Vua trả bút thần cho em vào bảo em vẽ biển, biển mênh mông không có sóng. Nhà vua ngắm nhìn rồi bảo:
- Sao biển này không có cá?
Mã Lương chấm vài chấm, biển hiện lên đầy cá khiến vua rất thích thú. Vua bảo Mã Lương vẽ một con thuyền để đi dạo. Có thuyền rồi, vua và các quần thần cùng hoàng hậu, công chúa, thái tử lên thuyền ra khơi.
Thuyền đi quá chậm. Vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn: "Cho gió to lên, cho gió to lên!".
Mã Lương tô thêm vài nét bút đậm. Sóng biển nổi lên. Mã Lương lại tô thêm vài nét sóng nữa, sóng biển nổi lên cuồn cuộn. Biển động, vua cuống quýt kêu lên:
- Đừng cho gió thổi nữa. Đừng cho gió thổi nữa!
Mã Lương không hề đếm xỉa đến những lời nói đó mà cứ thế vẽ những đường cong lớn. Sóng biển xô vào bờ hết đợt này đến đợt khác.
Vua bị ướt hết quần áo một tay ôm lấy cột buồm một tay ra hiệu gào to: "Mã Lương không vẽ nữa". Mã Lương vờ như không nghe thấy, cứ tiếp tục vẽ. Gió bão càng to rồi vùi chôn cả thuyền vua vào lớp sóng dữ.
Sau khi vua chết, câu chuyện Mã Lương được truyền khắp nước. Không ai biết là Mã Lương đi đâu. Người ta đồn rằng chàng về nơi thôn dã sống yên bình bên những người nông dân lương thiện.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 3
Ai trong chúng ta cũng từng nhìn thấy những con vật nuôi trong nhà, phải không nào? Chó giữ nhà, mèo bắt chuột, chim họa mi líu lo hót cả ngày… Chúng thật đáng yêu và gần gũi. Thế nhưng, có ai từng để ý đến những con vật nhỏ bé, xấu xí, tưởng chừng vô dụng mà lại từng được tôn vinh như một “anh hùng” không?
Các bạn chắc chắn sẽ thấy quen thuộc với câu ca dao mà ai cũng từng nghe:
“Con Cóc là cậu ông Trời,
Ai mà đánh Cóc thì trời đánh cho.”Nhưng tại sao con Cóc lại được tôn là “cậu ông Trời”? Hãy cùng mình khám phá câu chuyện thú vị này nhé!
Ngày xửa ngày xưa, vào một thời kỳ khô hạn kéo dài, trời hạn hán lâu ngày, sông hồ cạn trơ đáy, ruộng đồng nứt nẻ, cây cối chết khô, và muôn loài vật đều kiệt sức. Thấy tình hình nguy cấp, Cóc – một con vật nhỏ bé nhưng rất thông minh – đã quyết định lên thiên đình để kiện Trời, mong cầu mưa xuống cứu giúp muôn loài.
Trên đường đi, Cóc gặp Cua, Gấu, Cọp, Ong và Cáo. Mỗi con đều có những đặc điểm và khả năng riêng, và tất cả cùng nhau đồng ý đi theo Cóc để “khiếu nại” với Ngọc Hoàng. Dù khát nước, mệt mỏi, nhưng quyết tâm trong lòng mỗi con đều rực cháy, không gì có thể ngăn cản.
Khi đến thiên đình, Cóc thông minh phân công từng việc theo khả năng. Cóc đảm nhiệm việc gõ trống kêu oan, và khi trống vang lên, cả thiên đình chấn động. Ngọc Hoàng sai Thiên Lôi ra xem, chỉ thấy Cóc nhỏ ngồi trên mặt trống, và liền ra lệnh Gà tấn công Cóc. Nhưng chưa kịp làm gì, Cáo đã nhảy ra cứu. Ngọc Hoàng nổi giận, tiếp tục sai Chó, nhưng Gấu và Hổ xuất hiện cứu Cóc. Ngay cả Thiên Lôi, khi ra ứng chiến cũng bị Ong đốt và Cua kẹp. Trận chiến diễn ra hỗn loạn, quân của thiên đình thất bại hoàn toàn trước đội quân nhỏ bé dưới sự chỉ huy của Cóc.
Ngọc Hoàng thấy tình hình nguy cấp bèn quyết định thương lượng. Cóc dũng cảm trình bày:
Tâu Ngọc Hoàng, muôn loài đang chết khát vì hạn hán. Xin Ngọc Hoàng rủ lòng thương, cho mưa xuống cứu chúng sinh.
Ngọc Hoàng đồng ý, hứa rằng khi trần gian gặp hạn, Cóc chỉ cần nghiến răng kêu vài tiếng, mưa sẽ rơi xuống. Khi trở về, Cóc cùng các bạn đi khắp nơi, mưa rào tưới mát cánh đồng, hoa lá tươi tốt, muôn vật vui mừng. Từ đó, câu ca dao:
“Con Cóc là cậu ông Trời,
Ai mà đánh Cóc thì trời đánh cho!”ra đời.
Câu chuyện nhắc nhở chúng ta đừng đánh giá thấp những sinh vật nhỏ bé. Dù xấu xí, dường như yếu ớt, nhưng sự dũng cảm và trí tuệ có thể mang đến những chiến công lớn, cứu sống muôn loài. Khi nghe mưa rơi ngoài kia, phải chăng đó là tiếng Cóc nghiến răng, gọi Trời xuống cứu nhân gian?

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 4
Trong số những câu chuyện có các nhân vật là loài vật mà em từng đọc, em ấn tượng sâu sắc nhất với truyện “Đôi cánh của ngựa trắng”.
Câu chuyện kể về một chú ngựa trắng nhỏ, hiền lành và ngoan ngoãn. Hằng ngày, chú chỉ quanh quẩn bên mẹ, chưa từng đi đâu xa. Chú có một người bạn thân là đại bàng mạnh mẽ, với đôi cánh to lớn khiến chú luôn ngưỡng mộ và ao ước một ngày nào đó mình cũng có được đôi cánh như vậy. Khi nghe ngựa con tâm sự, đại bàng quyết định dẫn cậu vào một cuộc phiêu lưu, để tìm kiếm “đôi cánh” riêng cho bản thân. Ngựa con xin phép mẹ và cùng đại bàng bắt đầu chuyến khám phá thế giới xung quanh.
Trên đường đi, chú được chiêm ngưỡng những khu rừng rộng lớn, những cánh đồng lúa bát ngát, những khu vườn hoa rực rỡ… tất cả đều hoàn toàn khác với nơi chú sống, khiến chú say mê và thích thú. Một hôm, khi đang chạy nhảy trên đường, chú bất ngờ gặp phải một con sói xám hung dữ. Khi con sói định lao tới, đại bàng lập tức xuất hiện, mổ mạnh khiến nó sợ hãi bỏ chạy. Ngựa con vẫn còn hoảng loạn, khóc gọi mẹ, nhưng mẹ ở cách đó mấy ngày đường. Đại bàng khuyên chú nên trở về nhà ngay, nhưng ngựa con biết mình không thể bay như đại bàng, không chắc khi nào mới về tới. Nghe vậy, đại bàng nói: “Đôi chân chính là đôi cánh của em đấy.” Ngựa con hiểu ra lời anh, ra sức tung vó chạy thật nhanh về nhà. Gió lướt qua bờm của chú, nhưng không làm cậu chậm lại. Lúc này, chú cảm giác như đang bay, đúng như mơ ước bấy lâu nay.
Cuối cùng, ngựa con đã tìm thấy “đôi cánh” mà mình hằng mong muốn. Qua chuyến phiêu lưu, cậu đã học được một bài học quý giá về sự nỗ lực, dũng cảm và ý chí vươn lên.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 5
Từ khi còn nhỏ, em đã rất thích đọc truyện. Em có thể ngồi cả buổi trong phòng, say mê chìm đắm vào thế giới kỳ diệu của các câu chuyện. Trong số đó, em luôn ưu tiên chọn những truyện có nhân vật là các loài vật, bởi em yêu thích cách kể về thế giới của chúng. Một trong những câu chuyện khiến em ấn tượng nhất là “Sư tử và chuột nhắt”.
Câu chuyện kể về hai nhân vật chính: một con sư tử oai phong, to lớn và một chú chuột nhắt nhỏ bé, nhanh nhẹn. Một buổi trưa nắng vàng, sư tử đang chuẩn bị chợp mắt sau bữa ăn no nê thì bất ngờ cảm thấy chân mình bị ai đó chạm vào. Ngẩng đầu, sư tử thấy một chú chuột nhắt vô tình dẫm lên chân mình và ngã nhào xuống bãi cỏ. Chuột nhắt sợ hãi khi nhìn thấy ánh mắt của sư tử, bởi nếu bị ăn thịt, sẽ chẳng ai cứu được mình. Tuy vậy, chú vẫn bình tĩnh, van nài sư tử tha mạng. Sư tử vốn đang no bụng và buồn ngủ, thấy chú chuột quá nhỏ bé, gật đầu đồng ý, và chuột nhắt mừng rỡ hứa sẽ báo ơn. Sư tử thì cười lớn, xem lời hứa của chú chỉ là chuyện đùa, rồi cho chuột nhắt đi.
Thời gian trôi qua, sư tử quên hẳn chuyện đó, còn chuột nhắt thì vẫn ghi nhớ. Cho đến một ngày, sư tử không may rơi vào bẫy của thợ săn. Toàn thân bị lưới buộc chặt, treo lơ lửng trên cao, sư tử vô cùng tuyệt vọng, gầm lên cầu cứu. Nghe tiếng kêu, chuột nhắt cùng đàn của mình lập tức đến giúp. Những chú chuột nhỏ nhưng nhanh nhẹn, linh hoạt đã gặm đứt sợi lưới, giải cứu sư tử khỏi bẫy. Khi mọi chuyện kết thúc, một chú chuột đứng lại, nhìn sư tử và nói: “Giờ tôi đã trả ơn cho ông rồi. Ông có ngờ rằng một chú chuột nhắt nhỏ bé cũng có thể cứu ông không?”. Sư tử trở về hang với bao suy nghĩ trong đầu, lần đầu tiên nhận ra rằng dù lớn hay nhỏ, mạnh mẽ hay yếu ớt, ai cũng có thể giúp đỡ người khác.
Câu chuyện “Chuột nhắt và sư tử” không chỉ mang tính giải trí mà còn chứa đựng những bài học quý giá. Nhờ chú chuột nhắt thông minh, dũng cảm, em học được sự tự tin và nhận ra rằng mỗi người đều có thế mạnh riêng. Ở thời điểm nào đó, chúng ta có thể phát huy khả năng để làm những việc có ích. Không ai là vô dụng, ai cũng có giá trị theo cách riêng của mình. Bài học đó chính là lý do khiến em yêu thích câu chuyện này đến vậy.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 6
Trong những câu chuyện về các loài vật gần gũi với trẻ em mà em từng đọc, em ấn tượng nhất là truyện “Cuộc chạy đua trong rừng”.
Ngày mai, các loài thú trong rừng sẽ tổ chức một cuộc thi chọn ra con vật chạy nhanh nhất. Ngựa Con hào hứng lắm, tự tin mình sẽ giành được vòng nguyệt quế. Chú mơ màng hình dung khoảnh khắc đứng trước mọi người, tay nâng chiếc cúp vô địch, nhận được những tràng pháo tay và lời tán thưởng. Chú chăm chú chỉnh sửa bộ dạng, mải mê soi bóng mình dưới dòng suối trong vắt. Trong mắt Ngựa Con, hình ảnh hiện lên thật hoàn hảo: bộ lông nâu óng mượt, bờm dài được chải chuốt, trông hệt như một nhà vô địch.
Ngựa Cha nhìn con, khẽ nhắc nhở:
Con trai à, con nên đến bác thợ rèn kiểm tra lại móng chân. Nó quan trọng cho cuộc đua hơn là bộ lông đẹp kia.
Nhưng Ngựa Con mắt vẫn dán vào bóng mình trên mặt nước, ngẩng lên trả lời:
Cha yên tâm đi! Móng chân của con chắc chắn lắm. Con nhất định sẽ thắng!
Ngày thi đến, bãi cỏ tấp nập sinh vật. Chị em nhà Hươu sốt ruột gặm cỏ, Thỏ Trắng và Thỏ Xám cẩn thận quan sát đối thủ, còn Bác Quạ bay đi bay lại giữ trật tự. Ngựa Con ung dung bước vào vạch xuất phát.
Tiếng hô “Bắt đầu!” vang lên. Các vận động viên rùng rùng lao đi. Vòng đầu tiên… vòng thứ hai… Ngựa Con dẫn đầu với những bước sải dài, khỏe khoắn. Bỗng nhiên, chú cảm thấy chân vướng và giật mình khi một móng chân lung lay rồi rời hẳn. Cái gai nhọn đâm vào chân khiến Ngựa Con đau điếng, chú tập tễnh rồi cuối cùng phải dừng hẳn. Nhìn bạn bè lần lượt vượt qua, mắt chú đỏ hoe, cảm thấy hối hận vì đã bỏ qua lời cha dặn.
Từ câu chuyện, Ngựa Con rút ra bài học quý giá: không bao giờ được chủ quan, dù là việc nhỏ nhất. Em cũng nhận ra rằng trong cuộc sống, chúng ta cần chuẩn bị kỹ càng và cẩn trọng trong mọi việc, để tránh những sai lầm đáng tiếc.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 7
Câu chuyện cổ tích “Tấm Cám” từ lâu đã gắn liền với tuổi thơ của mỗi người Việt Nam, kể về cô Tấm dịu hiền, chăm chỉ, nhưng phải chịu nhiều bất công từ mẹ con dì ghẻ. Tấm làm mọi việc trong nhà, bắt cá suốt ngày nhưng Cám lại lấy hết mang về đổi chiếc yếm đào. Ngay cả con cá bống duy nhất làm bạn với Tấm cũng bị mẹ con Cám giết. Khi muốn đi dự hội, nàng phải nhặt riêng từng hạt thóc, hạt gạo. May mắn, được sự giúp đỡ của Bụt, Tấm vượt qua khó khăn, dự hội, gặp nhà vua nhờ chiếc giày đánh rơi.
Tuy nhiên, câu chuyện cổ điển thường có kết thúc gây tranh cãi: Tấm trở thành Hoàng Hậu nhưng trả thù mẹ con Cám một cách tàn nhẫn. Để giữ hình ảnh hiền lành của Tấm, phiên bản mới kể rằng khi Tấm trở về, mẹ con Cám hoảng sợ trước quyền uy của vua và bỏ chạy.
Họ vội vã thu gói đồ đạc, mang theo vàng bạc châu báu rồi chạy tới một ngôi làng ít người để ẩn náu. Trên đường, họ gặp phải bọn thổ phỉ, bị cướp hết của cải. Không còn tiền, quen sống trong nhung lụa, họ phải sống qua ngày bằng việc đi ăn mày. Cuộc sống khó khăn khiến dì ghẻ nhanh chóng bệnh nặng, còn Cám phải lao động vất vả để kiếm tiền mua thuốc chữa bệnh cho mẹ.
Một lần đi ăn xin, Cám gặp Tấm – khi Tấm đang cải trang đi du hành. Tấm nhận ra Cám, giữ lại và hỏi thăm mọi chuyện. Khi biết hết nỗi khổ mà họ phải chịu, Tấm tìm tới nơi mẹ con Cám đang sống. Thấy Tấm, dì ghẻ sợ hãi:
Sao con lại ở đây?
Tấm dịu dàng đáp:
Dì ơi, dì có sao không? Trở về cùng con đi, con đã tìm dì và em lâu lắm rồi.
Dì ghẻ ngạc nhiên:
Dì đã làm nhiều việc có lỗi với con như vậy, sao con còn tốt với dì như thế?
Chuyện đã qua rồi, con chỉ còn dì và em là người thân. Chúng ta hãy bỏ qua quá khứ, sống tốt từ hôm nay, Tấm nhẹ nhàng nói.
Sau một hồi khuyên nhủ, mẹ con Cám đồng ý trở về. Nhưng do bệnh tình quá nặng, dì ghẻ không qua khỏi. Cám, mang nỗi buồn vì mẹ mất và tội lỗi trong lòng, quyết định rời đi, du hành khắp nơi, còn Tấm tiếp tục sống hạnh phúc, nhân hậu và bình yên bên nhà vua.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 8
Ta là Thuỷ Tinh, một kẻ đã nhiều lần đánh nhau với Sơn Tinh để cướp Mị Nương, nhưng chẳng hiểu vì sao mỗi lần đều thất bại.
Nguyên nhân một phần là hôm đó ta nghe bọn thủy binh và các loài vật dưới biển bàn tán:
“Vua Hùng thứ mười tám có một người con gái xinh đẹp, hiền hậu và dịu dàng, đang muốn chọn một người chồng xứng đáng.”
Nghe vậy, ta lập tức đến xin cầu hôn nàng. Nhưng không ngờ, Sơn Tinh cũng đã có mặt ở núi Tản Viên. Anh ta mặc áo giáp, bước đi mạnh mẽ, hùng dũng, sở hữu sức mạnh chẳng kém gì ta: vẫy tay về phía Đông, phía Đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía Tây, phía Tây mọc lên núi đồi trùng điệp.
Ta cũng trổ tài, vung tay gọi gió, gầm thét khiến mây đen kéo đến, mưa ào ào trút xuống. Vua Hùng băn khoăn không biết chọn ai, bèn mời các lạc hầu bàn bạc. Cuối cùng, vua phán:
Hai ngươi đều khiến ta vừa lòng, nhưng ta chỉ có một con gái. Ngày mai, ai đem sính lễ đến trước sẽ được gả Mị Nương.
Vua liệt kê sính lễ: một trăm ván cơm nếp, một trăm nẹp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ phải đủ một đôi. Nghe vậy, ta lo lắng. Những món ấy ở dưới nước làm sao mà kiếm nổi, còn Sơn Tinh ở núi thì dễ dàng chuẩn bị. Nếu vua yêu cầu cá, tôm hay rồng thì dễ rồi, nhưng đây thật khó!
Sáng hôm sau, ta cho quân đem lễ vật đến từ rất sớm, nhưng Sơn Tinh đã đến trước và rước Mị Nương đi mất. Ta đến sau, không thể lấy được vợ, tức giận vô cùng, liền đem quân truy đuổi và mở màn trận đánh. Ta hô mưa gọi gió, làm giông bão cuồn cuộn, nước sông dâng lên nhấn chìm ruộng đồng, tràn vào nhà cửa, nhấn cả lưng đồi, sườn núi. Ta biết Mị Nương lo lắng cho cha và dân lành, nhưng ta không thể khác, bởi chỉ có chiếm lại nàng mới khiến lòng ta thỏa mãn.
Nhưng Sơn Tinh vẫn bình thản, dâng nước bao nhiêu, anh ta dựng núi cao bấy nhiêu. Trận chiến kéo dài hàng tháng trời, thủy binh của ta yếu dần, cuối cùng ta phải rút quân về trong tuyệt vọng.
Từ đó, oán hận ngày càng nặng, năm nào ta cũng gây mưa để đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng thất bại. Mỏi mệt, chán chê, ta lại lủi thủi ra về tay trắng, trong lòng đầy oán hận. Nhân dân thì chế nhạo ta, vì những trận mưa lũ mà ta gây ra đã làm hại dân lành.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 9
Chuyện kể rằng ngày xửa ngày xưa, trong một gia đình nọ có hai anh em. Cha mẹ không may mất sớm, hai anh em chung sống với nhau hòa thuận. Nhưng kể từ ngày người anh lấy vợ, người em phải ra ở riêng. Người anh vô cùng tham lam, lấy hết tất cả của cải trong nhà, chỉ chia cho người em mỗi một cây khế. Người em vốn hiền lành lại chăm chỉ cần cù, ngày qua ngày vẫn chăm sóc cho cây tươi tốt, sai trĩu quả. Đến ngày được thu hoạch, bỗng có một con chim lạ đến ăn gần hết số quả khế ngọt. Người em vô cùng buồn bã, khóc than cho số phận đáng thương của mình "Chim ơi, nhà tôi chỉ có mỗi cây khế là tài sản nuôi sống tôi. Chim ăn hết quả thì tôi sống bằng gì đây." Thật không ngờ, con chim lạ đáo lời lại "Ăn một quả trả một cục vàng, may túi 3 gang, mang đi mà đựng".
Sáng sớm hôm sau, con chim bay đến trước sân cõng người em trên lưng, bay qua biển cả đến một hòn đảo không người. Kỳ lạ thay, đó là một hòn đảo toàn vàng bạc và châu báu. Người em tuy thấy nhiều nhưng cũng chỉ đựng đầy túi 3 gang đem về. Cuộc sống của người em từ đó thay đổi, ngày một giàu có hơn những vẫn lao động vô cùng chăm chỉ. Người anh thấy vậy liền tìm đến dò hỏi. Bản chất vốn là người thật thà, người em kể hết đầu đuôi câu chuyện cho người anh nghe. Người anh đề nghị đổi cả gia tài của mình chỉ để lấy cây khế cùng túp lều của người em. Đúng như kế hoạch, ngày ngày người anh chờ mong chim lạ đến. Rồi một ngày con chim cũng xuất hiện. Hắn giả vờ khóc lóc năn nỉ và chim cũng bảo người anh may túi ba gang để nó trả ơn. Nhưng vì quá tham lam, hắn ta bảo vợ may túi dài tận 12 gang. Khi ra đến đảo, hắn ra sức nhét vàng vào đầy túi. Chim cố gắng bay trở về nhưng không may thay, bao vàng quá nặng khiến cánh chim chao đảo. Chim bảo người anh bỏ bớt vàng nhưng anh ta không chịu. Vì quá mệt, chim chao cánh khiến người anh cùng túi vàng rơi hết xuống biển.
Chỉ vì lòng tham không đáy mà mạng sống của người anh cũng phải bỏ lại. Đây là một bài học đắt giá răn dạy mỗi chúng ta. Con người sống cần cù, hiền lành tử tế ắt sẽ nhận được kết quả xứng đáng. Sống quá tham lam ắt sẽ có kết cục không tốt đẹp. Đồng thời câu chuyện cũng dạy chúng ta lòng biết ơn đối với những người đã dang tay giúp đỡ chúng ta.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 10
Tôi là Chim Thần trong câu chuyện “Cây khế” – một câu chuyện cổ tích Việt Nam đầy ý nghĩa. Nay tôi xin kể lại để các bạn cùng nghe.
Ngày xưa, có hai anh em mồ côi cha mẹ. Khi đến tuổi lập gia đình, người anh chia gia tài. Nhờ là anh cả, hắn chiếm hết tài sản, chỉ để lại cho em một mảnh vườn nhỏ, với một cây khế ngọt ở cuối vườn. Vợ chồng anh sống sung sướng trên gia tài cha mẹ để lại, còn người em phải đi cày thuê cuốc mướn, vất vả lắm mới kiếm được bát cơm manh áo để sống qua ngày.
Đến mùa khế chín, cây trĩu quả, người em sống nhờ vào những trái khế. Tôi vốn rất thích ăn trái cây, nên một hôm bay qua vườn, thấy quả khế mọng, tôi liền sà xuống chén hết trái này đến trái khác. Người em đi đến, buồn rầu nói với tôi:
Chim ơi! Gia tài tôi chỉ có mỗi cây khế này. Chim ăn hết, tôi lấy gì để sống?
Tôi đáp ngay:
Ăn một quả, trả cục vàng. May một túi ba gang, mang đi mà đựng.
Y như lời hứa, sáng hôm sau tôi bay đến, chở người em ra đảo lấy vàng. Người em nhờ tôi chở về nhà, đủ một túi ba gang vàng, từ đó cuộc sống em sung túc, giàu có hẳn.
Đến mùa khế ra hoa kết trái, tôi lại đến ăn như lần trước. Người anh thấy vậy, cậy sức mình, cùng vợ ra xin như đã thấy người em, hí hửng may một cái túi to đến mười hai gang. Tôi cũng đưa họ ra đảo vàng như đã hứa. Anh ta hoa cả mắt, nhét vàng bạc châu báu chật cứng cả túi. Chưa thoả lòng tham, hắn nhét đầy vào người, rồi ì à ì ạch leo lên lưng tôi. Vì quá nặng, tôi phải vỗ cánh mấy lần mới nhấc mình lên khỏi mặt đất. Khi bay qua biển, lại gặp luồng gió bất thần, tôi không giữ thăng bằng được, bèn nghiêng cánh hất hắn và cả túi, rơi xuống biển sâu.
Thế là hết đời kẻ tham lam, không biết tình nghĩa.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 11
Một buổi sớm nọ, người làng thấy bà Trần mặt mũi tái xanh, cứ ngồi yên trên bậc cửa như kẻ mất hồn. Gặng hỏi mãi, bà mới cho biết đêm qua bà bị con hổ bắt đi nhưng may thay nó không ăn thịt. Người làng phải đợi đến tận trưa, khi đã định thần, bà Trần mới kể lại toàn bộ câu chuyện đêm qua.
Đêm ấy tôi đi ngủ sớm vì ngoài trời gió rét lạnh căm căm, nhưng đến khoảng nửa đêm, khi có tiếng gõ cửa, tôi giật mình tỉnh dậy. Tôi nghĩ chắc lại có ai gọi đi đỡ đẻ như thường lệ, tôi dậy và ra mở cửa ngay. Lạ thay ! Khi mở cửa, ngoài trời vẫn tối om mà tôi nhìn chẳng thấy ai. Ngỡ là mình mơ ngủ nên tôi lại đóng cửa đi vào, vừa đặt lưng lên giường tôi lại nghe tiếng gõ như lần trước. Tôi đứng dậy đi ra nhưng lần này vừa mở cửa, tôi liền trông thấy một con hổ đực rất to đang phóng thẳng về mình. Thế là tôi sợ hãi ngất đi.
Tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm giữa một khoảng đất rộng bên cạnh là hai con hổ lớn. Lúc ấy tôi nghĩ, chắc mình chỉ còn đường chết. Nhưng quan sát kỹ, tôi thấy con hổ cái đang kêu gào lăn lộn, hai chân trước cào đất liên hồi. Ngay lúc ấy, hổ đực tiến lại gần tôi, nó lấy mõm hích hích vào tay tôi rồi nhìn thẳng về phía con hổ cái. Lúc ấy tôi sợ hãi vô cùng. Nhưng thấy tôi, mắt con hổ không dữ dằn mà còn tỏ vẻ van lơn, tôi cũng thấy đỡ lo. Lúc này, như một linh cảm, tôi nhìn vào bụng con hổ cái. Tôi phát hiện ra con hổ cái sắp sinh. Nghề nào thức nấy, vốn lúc nào tôi cũng mang theo túi thuốc trong người, tôi bèn lấy ra, hòa vào nước cho con vật uống. Tôi còn giúp xoa bụng hổ. Lát sau, Hổ cái sinh được ba chú hổ con. Hổ đực vô cùng mừng rỡ đùa giỡn với lũ con.
Một lúc sau, hổ đực quỳ xuống rồi đào lên ở một góc cây một cục bạc to. Hổ đực dùng miệng ngậm thả cục bạc vào tay tôi. Biết là hổ đền ơn, tôi bèn cầm lấy. Tôi vừa cầm cục bạc thì con hổ gật gật cái đầu rồi quay lưng đi trước. Trong đêm tối, tôi theo hổ ra đến bìa rừng mà còn thấy hãi hùng.
Nghe xong câu chuyện, người làng ai cũng mừng cho bà và khen vợ chồng con hổ có nghĩa.
Người làng còn kể tiếp: Năm ấy mất mùa, làng đói, nhờ cục bạc kia, bà Trần đã sống qua ngày. Lại nói về con hổ, một lần kia nó được một người tiều phu cứu vì lần ấy nó hóc phải một miếng xương bò. Về sau, mỗi năm, nó lại trả ơn người nọ một lần. Cho đến khi người ấy chết rồi con hổ vẫn sống ơn nghĩa như xưa.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 12
Lần thứ năm ông lão ra biển nhờ cá vàng giúp đỡ cũng là lần biển cả nổi cơn giông tố kinh khủng nhất như để phản đối sự đòi hỏi quá mức của mụ vợ. Cá vàng thương ông lão - vị ân nhân tốt bụng của mình mà đã đáp ứng nhiều yêu cầu của mụ.
Lòng tham của mụ vợ ngày càng đi quá xa. Từ một nông dân quèn ngồi bên cái máng lợn cũ sứt mẻ thành một bà nhất phẩm phu nhân rồi nữ hoàng với cung điện nguy nga, lộng lẫy và người hầu kẻ hạ tấp nập. Sự tham lam đã làm mụ mờ mắt mà vô ơn, đối xử tệ bạc với người chồng tội nghiệp. Tưởng rằng đã thoả mãn nhu cầu của mụ vợ thì không ngờ một lần nữa ộng lão lại lóc cóc đi ra biển. Lần này không binh thường như những lần trước, mụ muốn làm Long Vương ngự trên biển và bắt cá vàng hầu hạ theo ý muốn. Có lẽ được hưởng quá nhiều sự sung sướng của cuộc sống trần gian mà mụ ta muốn được đến một không gian mới. Nhưng mụ đã không biết rằng, cá vàng rất tức giận và sẽ không bao giờ đáp ứng yêu cầu của mụ nữa.
Ông lão vẫn kiên nhẫn đứng trên bờ biển chờ đợi câu trả lời của cá vàng. Mặc dù biết lần này mụ vợ của lão đã quá đáng nhưng ông cũng mong cá vàng sẽ giúp như những lần trước để ông không phải khổ sở vì mụ ta. Một lúc lâu sau, cá vàng xuất hiện. Nhìn ông lão với ánh mắt thông cảm, cá vàng lên tiếng: “Ông lão ơi. Tôi rất biết ơn vì ông đã cứu mạng tôi. Nếu không có ông thì tôi cũng không thể vẫy vùng trên biển cả được nữa. Vậy nên tôi rất muốn trả ơn ông, trả ơn thật hậu để đáp đền lòng tốt của ông. Những lần trước tôi đều giúp ông làm cho vợ ông thỏa nguyện. Nhưng lần này thì không được đâu ông lão ạ. Tôi không thể để mụ vợ ông ngang ngược làm Long Vương, lại càng không thể phục tùng mụ ta. Như thế, danh dự của một cá vàng thần kì của biển cả này sẽ bị xúc phạm. Dù không làm được điều ông mong muốn nhưng tôi có cách này giúp ông không bị mụ vợ la mắng...”. Ông lão khuôn mặt rạng ngời xin cá vàng giúp, ông lão thấy mình cũng không chịu được sự quái ác của mụ ta nữa.
Theo lời cá vàng chỉ dẫn, ông lão đi về nhà. Mụ vợ lúc này đang là nữ hoàng quyền uy nên lớn tiếng quát tháo tất cả mọi người. Thấy ông lão về mà mình vẫn chưa biến thành Long Vương mụ ta lại nổi cơn thịnh nộ, bắt ông đến gần doạ nạt. Ông lão bình tĩnh nhắn lại lời của cá vàng:" Mụ đừng đòi hỏi gì thêm nữa, hãy yên vị là một nữ hoàng sang trọng đi." Ngay tức khắc, ông lão bị lôi ra đánh và rồi lại lủi thủi đi ra biển. Cá vàng hiện lên “Ông lão ơi, ông đừng buồn nhé. Nếu mụ ta không biết trân trọng ông, không biết trân trọng những gì đang có thì mụ ta sẽ mất tất cả. Ông cứ yên tâm quay về đi”. Ông lão nghe lời cá vàng ra về. Và ngạc nhiên, mụ vợ ông không còn là nữ hoàng kiêu sa nữa mà giờ đây trở về là bà nhất phẩm phu nhân rồi. Nhưng ông lão cũng không được yên. Mụ ta giày vò ông, nói cá vàng vô ơn, không đáp ứng được mong muốn của ân nhân mình. Mụ vợ nói nhiều quả khiến ông không chịu được đành phải đi ra biển. Cá vàng lại xuất hiện, khuyên ông lão yên tâm ra về. Và lần này mụ vợ ông không còn ngôi vị gì nữa mà trở về với ngôi nhà nhỏ bên bờ biển. Mụ ta bắt đầu thấy lo lắng. Mỗi lúc mụ ta lại mất đi một thứ vô cùng quý giá, mất hết quyền uy, tiền bạc, mất hết cung điện nguy nga, người hầu kẻ hạ, giờ chỉ còn duy nhất một căn nhà. Mụ ta đang thấy sự trừng phạt của cá vàng. Mụ ta lo sợ rằng nếu còn đòi hỏi nữa chắc sẽ phải quay về với căn lều nát và cái máng lợn sứt mẻ. Mụ ta vô cùng lo lắng, mụ không muốn mình nghèo khổ như xưa, đến một tấm lưới lành lặn cũng không có. Sống trong thiếu thốn, cực nhọc gần hết cuộc đời rồi mụ vẫn chưa một lần được sung sướng. Mụ mong muốn một lần trong đời được hưởng thụ tất cả. Thế nên nhân cơ hội cá vàng trả ơn mụ thực hiện điều ước đó. Mụ không ngờ cá vàng lại hào phóng đến thế nên mỗi ngày đòi hỏi cao thêm. Cuối cùng, mụ nhận ra mình đi quá xa rồi và muốn xin cá vàng một căn nhà rộng, đẹp. Như thức tỉnh sau cơn mê dài, mụ khẩn khoản nhờ ông lão dẫn ra biển gặp cá vàng.
Cá vàng xuất hiện. Không chờ mụ nói gì, cả vàng hô biến và trong chốc lát, mụ ta không chỉ có cái máng lợn mới, tấm lưới đánh cá lành lặn mà còn cả ngôi nhà rộng đẹp, chắc chắn. Mụ ta ngạc nhiên và sung sướng lắm, tha thiết cảm ơn cá vàng. Cá vảng quẫy đuôi rồi lặn mất xuống đáy biển sâu.
Ông lão cùng vợ trở về nhà, trong lòng biết ơn cá vàng tốt bụng. Mụ vợ đã nhận ra lỗi lầm cùa mình và xin ông lão tha thứ. Từ đó, dựa vào những gì cá vàng giúp đỡ hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn, sống vui vẻ hoà thuận. Vợ ông lão cũng không còn mơ tưởng đến những gì quá xa xôi nữa.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 13
Năm ấy, khi ta đang yên ổn nằm ở bên mình đức Long Quân để bảo vệ người mỗi khi người gặp bất trắc. Thì bỗng một hôm, ta nhận được lệnh của đức Long Quân:
- Ngươi hãy chuẩn bị lên trần gian cứu nhân dân khỏi lũ giặc cướp nước bạo tàn. Nghe thấy nhân dân đang gặp hoạn nạn, ta thấy cần phải ngay lập tức cứu giúp dân lành. Bởi vậy, khi Đức Long Quân phán truyền ta liền tuân lệnh ngay, ngài nói:
- Ngươi hãy lên đó trước và để lại cái chuôi nạm ngọc, ta sẽ có cách gửi lên cho ngươi sau.
Nhưng nhớ lên đó một cách thật khéo léo, đừng xuất hiện bất ngờ khiến bà con hoảng sợ.
Tuân lệnh đức Long Quân, đêm đó ta chờ anh ngư dân Lê Thận đi đánh cá mới vội hoá vào lưới của anh ta. Lần thứ nhất khi kéo lên thấy ta, anh ta tưởng ta chỉ là cục sắt bình thường nên vứt lại biển khơi, cho đến lần thứ hai cũng vậy, ta đâm ra lo quá. Nhưng may thay đến lần thứ ba, anh đã phát hiện ra ta là một thanh gươm nên đưa về nhà.
Về nằm ở góc nhà Lê Thận rồi, ta lại lo lắng không biết làm cách nào để gặp được chủ tướng của nghĩa quân. Thật may, anh đã gia nhập nghĩa quân. Khi đó ta thì ta biết chắc chủ tướng Lê Lợi sẽ ghé qua nhà Lê Thận. Ta cứ ung dung ngồi chờ. Cho đến một hôm, Lê Lợi đến nhà Lê Thận chơi, ta liền phát sáng báo hiệu cho chủ tướng biết và tacòn cố tình làm nổi bật dòng chữ ?Thuận thiên? Để chủ tướng biết ta là một thanh gươm quý. Nhưng có lẽ Lê Lợi cũng không nhận ra điều đó nên thản nhiên đút ta vào bao gươm của ông.
Cho đến một hôm, đức Long Quân gửi lên cho ta chiếc chuôi và người đã khéo léo để nó trên cây trước mắt của Lê Lợi. Người chủ tướng thông minhnày đã nghĩ ngay đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, do vậy trở về ông liền tra chuôi vào chiếc gươm, chúng ta vừa như in, thế là ông đã nhận ra ta là một thanh gươm quý, lúc đó ta nghe thấy ông ta reo lên rất to:
- Đây là ý trời phó thác cho minh công làm việc lớn.
Từ đó, ta luôn bên cạnh Lê Lợi và cũng từ đó tình thế thay đổi hẳn, nghĩa quân đã liên tục dành được những chiến công mới khiến bọn giặc bắt đầu lo sợ. Nghĩa quân của ta chiến đấu khí thế hơn trước nhiều. Thế ta ngày càng mạnh, thế địch ngày càng yếu. Nghĩa quân đi đến đâu quân giặc chết như ngả rạ đến đó. Vậy là chẳng bao lâu sau trên đất nước chẳng còn một bóng quân thù nào cả. Ta rất vui mừng khi thấy nhân dân reo hò, hạnh phúc trước thắng lợi của Lê Lợi.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ được một năm thì ta nhậnđược lệnh của đức Long Quân đòi ta trở về dưới kia với rùa Kim Quy. Ta cảm thấy rất buồn vì phải xa những con người anh hùng dũng cảm, những người dân hiền lành, chất phác.
Ta nhớ hôm đó trời quang, mây tạnh, vua Lê cùng các quan trong triều đang dạo thuyền trên hồ thì anh bạn rùa ngàn tuổi xuất hiện. Trong lúc mọi người đang kinh ngạc, ta liền động đậy báo hiệu cho vua Lê Lợi biết. Hiểu ý của ta, vua Lê tháo ngay gươm đưa trả cho rùa vàng.
Thấm thoát đã bao năm, ta trở về chốn Thuỷ cung, ấy vậy mà trong lòng ta vẫn không nguôi nhớ về trần gian, do vậy thỉnh thoảng ta lại nhờ thần Kim Quy nổi lên mặt nước xem tình hình dân chúng dạo này ra sao. Thấy đất nước ta ngày một giàu đẹp là ta vui lắm rồi. Thôi đã muộn rồi, ta phải trở về thuỷ cung không Long Quân lại trách phạt. Hẹn các cháu một dịp khác nhau nhé.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 14
Nghe tin giặc Ân sắp sang xâm lược, vua cha cử ta xuống giúp dân đánh đuổi. Muốn biết dân chúng dưới trần đánh giặc ra sao, người khuyên ta nên đầu thai xuống trước vài năm. Ta nghe lời, bèn chọn một gia đình nghèo khó, lại hiếm muộn đường con cái, đó là một lão nông nghèo khó ở làng Phù Đổng. Hai vợ chồng giả cả mà lại không có con cái làm vui, biết hôm ấy bà già ra thăm đồng, ta bèn hóa phép làm một vết chân kỳ dị. Quả nhiên bà lão thấy lạ bèn ướm thử chân vào, thế là ta nhân đó hóa luôn thành bào thai trong bụng bà cụ.
Hai ông bà mừng lắm, đủ ngày đủ tháng thì ta ra đời. Để nghe ngóng lòng người, ta quyết không nói không rằng suốt ba năm, mặc cho bố mẹ tha hồ dỗ dành. Nước mắt bà cụ chảy tràn như suối, ta biết bà buồn lắm nhưng đã định từ trước như vậy nên suốt ngày nằm im, quay mặt vào vách.
Giặc kéo đến, chúng đi hàng đàn hàng lũ, thế rất mạnh, quan quân triều đình đánh không nổi. Khắp nơi náo loạn, vua bèn cho sứ giả đi khắp nơi tìm người hiền tài để giúp nước. Tiếng xứ giả vang khắp nơi, thời khắc quyết định đã đến. Ta vươn vai đứng dậy rồi nói với mẹ.
Mẹ ra bảo sứ giả vào đây cho con nói chuyện.
Mẹ ta lúc đang chuẩn bị quang gánh thep dân làng đi chạy giặc, nghe ta nói thế thì vô cùng sửng sốt và mừng rỡ, vội ra gọi sứ giả vào.
Sứ giả vào, thấy ta chỉ là một cậu bé con, có ý coi thường và thất vọng.
Thằng bé này thì đánh sao nổi giặc ?
Thấy ông ta nói vậy, ta quyết định dọa ông ta để chơi. Với một tay lấy chiếc cối đá, ta chỉ hất khẽ một cái "huỵch", chiếc cối đã rơi sát bên chân ông ta. Sứ giả biết ta không phải là người thường, vội quỳ xuống nói.
Xin thần tiên thứ tội. Người cần binh khí gì và thêm bao nhiêu quân đánh giặc ạ ?
Ta cho sứ giả đứng dậy rồi bảo.
Ngươi về bẩm với nhà vua, rèn cho ta một con ngựa sắt, một chiếc roi sắt và một chiếc nón bằng sắt, hẹn ngày mai phải xong.
Sứ giả vội lĩnh ý ra về. Ta quay sang nói với mẹ.
Mẹ chuẩn bị thật nhiều cơm cho con ăn, để con còn lấy sức đi đánh giặc.
Mẹ ta nấu một nồi cơm đầy, ta chỉ ăn đánh vèo một cái đã hết mà vẫn chưa thấp tháp gì. Mẹ bối rối vì trong nhà hết sạch gạo, may sao bà con hàng xóm biết chuyện, các nhà đều về nấu cơm mang sang. Bảy nong cơm, ba nong cà, ta cũng chỉ ăn loáng cái đã hết. Ăn xong, ta vươn mình đứng dậy, bước ra sân thì người đã quá mái nhà. Mọi người ai lấy làm mừng rỡ, vội về chuẩn bị dao, gậy để đi đánh giặc.
Hôm sau sứ giả mang đến một con ngựa sắt, một chiếc nón sắt và một chiếc roi sắt nhỏ. Nón thì ta đội không vừa, roi sắt thì vừa đập xuống đã gãy, ngựa sắt tung bờm hí vang nhưng với ta lúc này, trông nó không khác một con mèo nhỏ. Ta bảo sứ giả.
Ngươi về rèn ngay một con ngựa to gấp mười lần con này, một chiếc nón thật to và một chiếc roi thật lớn.
Sứ giả vâng lệnh, nhà vua biết tin bèn tập hợp tất cả sắt thép mọi nơi, tất cả thợ giỏi đều được vời về cung để kịp rèn cho ta một con ngựa sắt to đúng bằng một con voi, một chiếc nón to đúng bằng một tán cây đa và một cây gậy to đúng bằng cột đình.
Ta nói rồi ra roi, lên ngựa. Ngựa tung bờm phi nước kiệu đưa ta thẳng đến chỗ quân giặc, khắp nơi nhân dân nô nức cầm dao, gậy theo sau. Ngựa phi đến đâu, tre hai bên đường vàng sém đến đấy ( sau này được gọi là tre đằng ngà). Vết chân ngựa in xuống đất thành một dãy ao hồ ( bây giờ vẫn còn ở làng Phù Đổng).
Trông thấy ta từ xa, quân giặc vội quay đầu, vứt giáo tháo chạy. Nhưng chúng chạy đâu cho thoát ? Ngựa ta phun lửa đốt chúng cháy trụi từng mảng roi sắt ta vung ra một lần thì có cả chục thằng bị hất tung lên trời. Những thằng sống sót đều bị dân chúng đi theo tiêu diệt cả.
Bỗng "rắc" một cái, chiếc roi sắt gẫy làm đôi. Quân giặc thấy thế mừng rỡ định hè nhau xông lại. Sẵn các bụi tre bên đường, ta vươn mình nhổ bật lên quật túi bụi xuống đầu giặc. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tan tác không còn một mống.
Giặc tan, vua cho sứ giả ra tận nơi, phong cho ta là Phù Đổng Thiên Vương, mời về kinh thành để ban thưởng. Nhưng từ trên mây cao Ngọc Hoàng đã cất tiếng gọi ta rồi.
Gửi dân lời chào bố mẹ, ta một mình một ngựa lên núi. Lên đến đỉnh, ta cởi áo giáp vắt trên ngọn cây cao, ngựa sắt cất cánh từ từ bay vào không gian.
Thế đấy các cháu ạ. Nhiều người hỏi ta sao không ở lại mà lãnh thưởng, ta đã bảo họ rằng : ta tuy có tiêu diệt được nhiều quân giặc thật, nhưng chiến công này trước hết thuộc về cha mẹ nuôi ta, về dân làng Phù Đổng đã góp gạo, góp cà nuôi ta không lớn, về nhân dân khắp nơi đã không quản hiểm nguy, theo ta đi đánh đuổi quân thù.

-
bài văn kể chuyện sáng tạo lớp 5 - mẫu 15
Trong kho tàng sách truyện hiện đại, những câu chuyện được viết dành cho trẻ em ngày càng đa dạng và hấp dẫn hơn. Nổi bật trong số đó là câu chuyện “Thanh âm của gió” của nhà văn Văn Thành Lê.
Câu chuyện kể về một nhóm bạn nhỏ ở một ngôi làng hẻo lánh. Nơi đây người dân sống hòa mình vào thiên nhiên với cuộc sống đơn sơ và bình dị. Nhóm các bạn nhỏ gồm Điệp, Văn, Bống và anh trai của Bống mỗi ngày đều sẽ đi chăn trâu ở bên suối. Con suối đó chảy từ trên ngọn núi xuống. Càng xuống thấp, lòng suối càng rộng, nước trong veo, mát lạnh. Nhờ có dòng suối đó, mà hai bên bờ cỏ mọc tươi tốt, trở thành địa điểm lý tưởng để chăn trâu. Không chỉ vậy, ở phía chân núi, phía bên trái của dòng suối còn có cả một cánh đồng cỏ xanh mướt, rộng lớn. Đó là địa điểm vui chơi quen thuộc của nhóm bạn nhỏ vào mỗi buổi chiều, sau khi hoàn thành nhiệm vụ cho bầy trâu ăn no cỏ.
Sau khi xác định đã buộc chặt dây thừng dắt trâu vào cọc gỗ cắm giữa khe đá, cho bầy trâu thảnh thơi ngâm mình dưới suối. Các bạn nhỏ bắt đầu ùa ra bãi cỏ để chơi đuổi bắt. Điệp hái được một bông lau rất to và đẹp, nghịch ngợm phe phẩy vào tai Bống khiến cô bé rất nhột, cứ tìm cách né tránh mãi. Trong lúc vô tình, lòng bàn tay của Bống cứ úp mở liên hồi vào tai, khiến cô bé như nghe được âm thanh nào đó. Thế là Bống đứng lại, nghiêm túc lặp lại hành động vừa rồi của mình và xác nhận rằng, mình thật sự đã nghe được tiếng của gió trò chuyện bên tai. Ngay lập tức, Bống hí hửng chia sẻ điều này cho mọi người cùng chơi. Sự chú ý của nhóm bạn lập tức dồn về việc lắng nghe âm thanh của gió. Sau khi thử, Điệp và Văn đều vô cùng thích thú. Hào hứng kể về tiếng “u... u... u...” rồi “vui, vui, vui, vui...” và “cười, cười, cười, cười...”. Lũ trẻ cứ thế cười đùa với gió vui vẻ suốt cả chiều, cho đến khi Văn bảo rằng gió nói “đói, đói, đói... rồi” thì mới nhận ra mặt trời đã khuất chân núi. Dưới suối, mấy chú trâu cũng đã chơi chán chê, chủ động đứng dậy, đi lên bờ chờ được dẫn về nhà. Thế là cả nhóm bạn vội vàng tạm biệt nhau, rồi dắt trâu đi về nhà.
Tối đó, trong bữa cơm, Bống đã kể cho bố mẹ nghe về trò chơi nghe tiếng gió mà mình vừa phát hiện lúc chiều. Bố và mẹ bật cười hiền từ, nói rằng thuở nhỏ khi đi chăn trâu, bố mẹ cũng từng chơi. Nói rồi, bố đặt bát cơm xuống, lấy hai tay làm mẫu cho Bống và anh trai xem. Cứ thế, bữa cơm gia đình trôi qua thật ấm áp và vui vẻ.


















