Top 10 Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử (lớp 11) hay nhất

Bình An 4587 0 Báo lỗi

"Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ hay và đẹp của Hàn Mặc Tử. Với tác phẩm này nói chung và khổ thơ cuối nói riêng, Hàn Mặc Tử đã tái hiện một bức ... xem thêm...

  1. Hàn Mặc Tử một trong ba nhà thơ đỉnh cao của phong trào thơ mới, là nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Các tác phẩm của ông đều được sáng tác với một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại trong đau đớn, luôn có sự giằng xé giữa tâm hồn và thể xác. Đặc biệt bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ đầy tâm trạng của ông giằng cho người mình yêu. Khổ thơ cuối bài là dòng tâm trạng mơ hồ, kì ảo.


    Từ giọng khắc khoải da diết ở khổ 2 thì sang khổ 3 đã chuyển thành giọng gấp gáp, khấn khoản, niềm khao khát được gắn liền với hình bóng cụ thể:


    “Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra.”


    Hình bóng cụ thể lúc đầu là khách đường xa, lúc sau là em với tà áo trắng tinh khôi. Hình tượng giai nhân từ khách đường xa mà dần dần thành em với giấc mộng dài say đắm. Khách đã xa vời mà giờ đây khách đường xa lại càng xa xôi vậy mà mà gắn với nó là “mơ” lại càng hư ảo. Có phải những hình bóng ấy dù đẹp nhưng nó vẫn thuộc về thế giới ngoài kia của quá khứ và với thi sĩ nó chỉ hiện hữu bằng một giấc mơ dài. Hàn Mặc Tử với mong muốn gặp được khách, gặp được giai nhân nhưng mong muốn ấy của ông sẽ không trở thành hiện thực bởi chỉ trong mơ ông mới dám mơ ước về điều ấy.


    Ở câu thơ thứ hai thì “áo em trắng quá”. Từ “quá” chung sắc thái biểu cảm tiếng kêu phát hiện trầm trồ ngỡ ngàng về vẻ đẹp giai nhân hiện hữu. Sắc trắng hiện ra không ít hai lần: trong văn học trung đại thì đó là cái trắng tang tóc, cái màu trắng đau thương, buồn dường như nói về sự ra đi, chia tay. Còn trong văn học hiện đại thì đó là một sắc trắng mới, tràn đầy màu sắc và tươi trẻ hơn. Đó là cái trắng tinh khôi, tinh khiết. Quả thực Hàn Mặc Tử đã có một quan niệm mới mẻ, một quan niệm thẩm mĩ cách tân, hiện đại.


    Đó là sắc màu tinh khiết thánh thiện. Nó gắn với một kí ức xa xôi về người con gái gắn với sắc màu tinh khiết “nhìn không ra” cực tả sắc áo vừa gợi vẻ đẹp xa vời khó nắm bắt như thực mà lại như mơ nghĩa là có một nét vẻ đẹp mà nhà thơ mãi tôn thờ đang tuột dần khỏi tầm tay. Đúng lúc hình bóng giai nhân hiện về rõ nét nhất trong tâm tưởng, lung linh nhất thì lại tuyệt vọng nhất. Nhà thơ mượn giấc mơ nhưng lại nói về cái thực đang diễn ra trong tâm hồn con người. Nhưng đến hai câu thơ cuối:


    “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà.”


    Chủ thể trữ tình trở về với thế giới thực của mình từ thế giới ngoài kia đầy xót xa với thực tại đau thương, đầy chia lìa với sự ám ảnh của cái chết:


    “Tôi đang còn đây hay ở đâu

    Ai đem tôi bỏ xuống trời sâu.”


    Hoặc:


    “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi

    Bao giờ tôi hết được yêu vì.”


    Trong “Đây thôn Vĩ Dạ” sự trở lại của “sương khói mờ nhân ảnh”. Nó là sương khói của thực tại xứ Huế hay là sương khói của dòng thời gian khiến cho tất cả trở nên xa vời hư ảo “mờ nhân ảnh”. Cau hỏi “Ai biết tình ai có đậm đà?” đã kết lại bài thơ một cách đầy khắc khoải. “Ai” động từ phiếm chỉ vang lên khiến câu thơ xa vắng có chút hụt hẫng có thể là tác giả hay người con gái. Chỉ biết rằng nó khép bài thơ lại trong nỗi buồn mênh mang khắc khoải đầy xót xa trong khát khao khôn nguôii về tình đời, tình người.


    Câu thơ cuối có thể hiểu theo hai cách. Đó là người con gái xứ Huế có biết tình cảm của nhà thơ sâu đậm đến đâu hay nhà thơ có biết cô gái cũng có tình cảm với mình. Nhưng hiểu theo cách nào vẫn là chia sẻ thấu hiểu và được yêu thương dẫu cô đơn, đớn đau tuyệt vọng nhưng không thôi khao khát. Nhưng dù tuyệt vọng dù cô đơn đau đớn nhưng tác giả vẫn không nguôi đầy khát khao. Hàn Mặc Tử dù đang phải đối mặt với bệnh tật, trải qua những đớn đau nhưng không bao giờ ông tuyệt vọng mà luôn mong về một cuộc sống mới, khát khao được sống.


    Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ta như chạm đến trái tim người đọc thấu hiểu được những ước mơ, khát vọng mà Hàn Mặc Tử muốn có dù nó rất đời thường nhưng với tác giả nó vô cùng thiêng liêng. Khổ thơ đã dạy ta cách trân trọng cuộc sống này hơn.

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 1
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 1

  2. Trong phong trào thơ mới, Hàn Mặc Tử là hiện tượng thơ kì lạ nhất, “một giọng thơ độc đáo không chia sẻ âm hưởng với bất kì ai”. Viết thơ để trải niềm đau trên mảnh giấy mỏng manh, đi đến tận cùng đau thương, thơ Hàn Mặc Tử thực sự là “huyết lệ” của một linh hồn trước giờ hấp hối sắp chia phôi. Tuy nhiên, bên cạnh những vần thơ huyết lệ, Hàn Mặc Tử vẫn có những tiếng thơ tinh khôi như ánh ban mai, trong trẻo như nước suối đầu nguồn. Rút ra từ tập “Thơ điên”, “Đây thôn Vĩ Dạ” là những vần thơ tinh khôi trong trẻo trong gia tài Hàn Mặc Tử nhưng vẫn ẩn chứa tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời. Nếu khổ thơ đầu tiên diễn tả vườn Vĩ Dạ buổi ban mai, khổ thứ hai là đêm trăng xứ Huế cùng với những mặc cảm, chia lìa, xa cách thì khổ thơ thứ ba lại nói về hình bóng khách đường xa va nỗi niềm mơ tưởng của thi sĩ:


    Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?


    Bị cuộc đời tuyệt giao, nhưng Hàn Mặc Tử không bao giờ chịu tuyệt tình. Càng chia lìa, càng bị cuộc đời bỏ rơi, thi sĩ càng yêu đời thiết tha, đắm say đến đau đớn. Ao ước trở về thôn Vĩ không thành, thi sĩ lại mơ tưởng đến người thương thôn Vĩ: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Thật xót xa trong giấc mơ, người thương đã thành khách đường xa. Lời gọi “khách đường xa, khách đường xa” chất chứa biết bao nhiêu mặc cảm chia li, xa cách. Nỗi cách chở chia li như nhân lên trùn trùng qua nghệ thuật điệp liên tiếp 4/3. Ta tưởng như trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng người lính vừa chợt hiện lên đã mờ dần, khuất xa, mất hút. Người tình xưa như đang chạy trốn ta vậy. Câu thơ tự sự mà mang âm diệu của tiếng nấc nghẹn ngào, của lời than chới với, hụt hẫng.


    Trong giấc mơ của thi sĩ, bóng hình em hiện lên thật ám ảnh: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Áo em lẫn vào sương khói nên không nhìn thấy, không rõ? Có lẽ không phải vậy. Câu thơ chỉ là một cách cực tả sắc trắng tuyệt đối, trắng đến lạ lùng của thi sĩ mà thôi. Cực tả vốn là một thiên hướng của Hàn Mặc Tử. Hơn nữa, những nàng thơ trong cõi thơ của Hàn luôn hiện ra với vẻ đẹp lí tưởng trinh bạch, thanh khiết và vẻ đẹp ấy bao giờ cũng được biểu lộ bằng sắc áo trắng tinh khôi. Ví như vẻ đẹp thanh khiết của cô gái đồng trinh đã được cực tả bằng hình ảnh: “Chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Vẻ đẹp trinh bạch của người chị trong trang văn “Chơi giữa mùa trăng” cũng được thi sĩ gợi tả bằng áo trắng: “Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát và tinh khôi như pho tượng đức bà Maria. Sao đêm nay chị tôi đẹp thế này. Mà vận áo quần bằng hàng trắng nữa, trông thanh sạch quá đi”. Vậy, cực tả sắc trắng lạ lùng của người con gái Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm tâm sự gì? Phải chăng đó là niềm đắm say tột bậc trước vẻ đẹp tinh khôi, trinh nguyên, thanh tiết đến tuyệt vời của người mình yêu dấu. Cùn với vườn ngọc, trăng huyền ảo, hình bóng trinh nguyên của người khách đường xa đã hợp thành thế giới ngoài kia, lộng lẫy, quyến rũ. Nhưng cũng giống như những hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông, sông nước xứ Huế đêm trăng đi liền với niềm đắm say tột bậc là nỗi đau thương đến xót xa. Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả nghìn thế giới, cả một tầm tuyệt vọng.


    Mơ tưởng về người thôn Vĩ, thi sĩ không sao thoát khỏi nỗi đau thương, hình ảnh người tình xa càng lộng lẫy thì khoảng cách càng đẩy xa vời vợi. Cuối cùng, thi sĩ đành ngậm ngùi mà trở về với thực tại: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” là không gian nào, Vĩ Dạ mộng mơ hay trại phong lạnh lẽo, là lãnh cung chia lìa mà ngày đêm thi sĩ đang một mình chống chọi ác quái. Ở đây sương khói mịt mù, vùi lấp cả bóng người. Sương khói nào mà lại có sức phủ ghê gớm đến vậy. Đó chỉ có thể là sương khói của thời gian xa cách đằng đẵng, của không gian xa cách nghìn trùng, của mối tình đơn phương vô vọng, của mặc cảm chia lìa. Những lớp sương khói mịt mù, trùng trùng ấy đã phủ kín hình ảnh, bóng ảnh. Thành thử, thi sĩ ơ nơi này mà như không còn tồn tại nữa. Trong câu thơ như có tiếng người khổ đau của kiếp người lãng quên:


    Tôi đang ở đây hay ở đâu

    Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu


    Mọi thứ trên cõi đời này đều quay lưng với Hàn Mặc Tử. Chỉ có chút tình kia là sợi dây duy nhất níu buộc thi sĩ với cuộc đời. Thế mà cái tình kia cũng mong manh, xa với lắm: “Ai biết tình ai có đậm đà”. Đại từ phiếm chỉ “ai” được sử dụng linh hoạt biến hóa đem đến cho câu thơ những hàm nghĩa phong phú, thú vị. Có thể hiểu thơ là “Em có biết tình anh vẫn đậm đà”. Hiểu thư thế, câu thơ là lời khẳng định tình cảm tha thiết, sâu đậm mà thi sĩ luôn dành cho người em Vĩ Dạ. Ẩn sau lời bày tỏ tha thiết ấy là chút giận hớn trách móc. Sao em vô tâm không thấu hiểu lòng anh. Lại có thể hiểu ý thơ theo hướng khác: “Anh nào có biết tình em có đậm đà hay không?”. Theo hướng này, câu thơ đưa ra như một lời hỏi đầy hoài nghi, một tiếng thở dài ngậm ngùi chua xót. Và nói có thể chính là câu trả lời cho câu hỏi buôn ra từ đầu bài thơ:


    (lời hỏi) Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

    (lời đáp) Ai biết tình ai có đậm đà?


    Ao ước khát khao đến cháy long được trở về Ví Dạ nhưng anh không thể về Vĩ Dạ vì anh nào có biết tình em có đậm đà. Những lời hỏi áy cứ xoáy xâu vào lòng người đọc một nỗi buồn xót xa. Tình yêu mãnh liệt mà vô vọng đau đớn khi hướng về cuộc đời trần thế đã được thể hiện một cách cảm động trong những câu thơ cuối.


    Khép lại “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta mới thấu được tình cảnh của thi sĩ. Không chỉ xúc động lòng người bởi tính khắc khoải, xót xa, “Đây thôn Vĩ Dạ” còn mê hoặc người đọc bởi vẻ đẹp của thơ. Cảm nhận khổ thơ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ với ngôn từ trong sáng, giàu sức tạo hình và có sức biểu cảm tinh tế, chạm tới trái tim. Cảnh sắc thiên nhiên liên tục, không tuân theo tính thống nhất về không gian và thời gian nhưng vẫn gây ấn tượng cho người đọc. Tất cả tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm cũng nhưng làm bật lên ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử. Quả không sai, khi có ai đó tưng nói:


    Nếu nhân loại không còn khao khát nữa

    Và nhà thơ – nghề chẳng kẻ nào yêu

    Người – Thi sĩ – cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử

    Vẫn hiện lên ở đáy vực đợi chờ.

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 2
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 2
  3. Hàn Mặc Tử - thi nhân của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối, ông yêu nhiều nhưng chỉ nhận lại sự đắng cay, bẽ bàng trong những cuộc tình. Cuộc đời ông niềm vui thì ít mà chỉ toàn nỗi cô đơn, đau buồn. Mọi nỗi niềm tâm tư Hàn Mặc Tử đều gửi vào trong thơ. Thơ ông quằn quại trong đớn đau, thấm đẫm nước mắt và có phần điên loạn. Giữa những vần thơ ma quái, kì dị ấy vẫn có những vần thơ thật trong sáng tinh khôi đó chính là kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đặc biệt là khổ thơ cuối ánh lên niềm khát khao tình đời, tình người của thi nhân mạnh mẽ nhất nhưng cũng thật xót xa.


    Nếu khổ thơ đầu mở ra khung cảnh thiên nhiên trong trẻo đẹp say đắm lòng người của Vĩ Dạ tắm mình trong ánh nắng buổi ban mai. Tiếp đến khổ thơ thứ hai là cảnh sông nước, mây trời trong đêm trăng huyền ảo trên dòng Hương giang hư hư thực thực với những mặc cảm đớn đau, nuối tiếc của thi nhân khi sắp phải xa lìa cõi đời. Để những sông trăng, thuyền trăng đã đưa Hàn Mặc Tử vào cõi mơ đầy huyền ảo ở khổ thơ cuối. Đây cũng là khổ thơ thấm đẫm tình người, khao khát được sống của nhà thơ.


    Bị cuộc đời tuyệt giao, bỏ rơi nhưng Hàn Mặc Tử không quay lưng lại với cuộc đời, mà ông càng thiết tha với đời nhiều hơn. Thực tại quá đớn đau, nghiệt ngã, thi nhân đành tìm niềm an ủi trong cõi mộng. Bao trùm khổ thơ thứ ba là một màu sắc hư vô. Thật thật, giả giả khó lòng phân tách đâu là thực đâu là mơ. Tình yêu đối với con người và thiên nhiên nhiên xứ Huế sâu đậm, ám ảnh nhà thơ đến những giây phút cuối đời. Nhưng căn bệnh hiểm nghèo, quái ác đôi khi làm nhà thơ như không còn tỉnh táo, không phân biệt đâu là hiện thực đâu là giấc mơ:


    “Mơ khách đường xa khách đường xa”


    Nhà thơ đang chìm vào trong cõi mộng, trong trạng thái vô thức “mơ”. Điệp ngữ “khách đường xa” được lặp lại hai lần, lần lặp thứ hai chữ “mơ” đã được bỏ đi khiến cho câu thơ như ẩn chứa hai tâm trạng, hai cung bậc cảm xúc khác nhau: lần đầu là khát vọng, lần sau là thực tại. Khát vọng là mơ về khách đường xa, mơ một lần được gặp lại người xưa, cảnh cũ nhưng hiện thực càng mơ, càng mong, càng khao khát lại càng xa, xa mãi đến vô vọng, không thể còn một lần nào gặp gỡ.


    Câu thơ thứ hai: “Áo em trắng quá nhìn không ra” trong không gian hư ảo khó phân biệt đó, hình ảnh “áo em trắng quá” làm thi nhân vừa choáng ngợp, nghẹn ngào, vừa xót xa, tiếc nuối dù khao khát đến cháy bỏng được chiêm ngưỡng tà áo em trắng tinh khôi thuở nào, những bệnh tật đã làm cho thi nhân chẳng còn chút tỉnh táo, lạc mất vào cõi hư không “nhìn không ra”, không rõ đấy là màu trắng của áo em hay là màu của tâm tưởng, của những kỉ niệm xưa cũ.


    “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, “ở đây” có thể là không gian hiện thực nơi xứ Huế vốn nhiều nắng, nhiều mưa, nơi sương khói hư ảo nhưng cũng có thể lại chính là không gian tâm tưởng, không gian nơi tác giả đang đắm chìm trong đau thương, tuyệt vọng đến cùng cực để rồi thốt lên một câu hỏi, chẳng có câu trả lời “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Một câu hỏi tu từ chứa đựng bất an, hoài nghi về tình người của con người xứ Huế. Liệu sau quãng thời gian xa cách, liệu với căn bệnh hiểm nghèo, người dân xứ Huế vẫn thương yêu, trìu mến hay là đã lãng quên mình, xa lánh, ruồng rẫy thi nhân. Câu thơ cuối cũng chính là câu trả lời cho câu thơ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Nhà thơ ao ước được trở về nơi xưa, được gặp lại cố nhân nhưng “Cảnh xưa còn đó, lòng người đổi thay”. Câu thơ khép lại bài thơ trong nỗi hoài nghi, tuyệt vọng nhưng vẫn thấy ở đó là niềm khát khao của thi nhân với tình người, với trần thế chẳng thể nào lụi tàn.


    Khổ thơ cuối đượm buồn, mang màu sắc ảo ảnh vừa có chút hoài nghi, trách móc, vừa chứa chan niềm tha thiết với cuộc đời, với con người của một tâm hồn cô đơn ham sống, khát khao sống đến mãnh liệt.


    Với những hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ giàu tâm trạng, âm điệu, nhịp thơ trong sáng, thiết tha kết hợp với nghệ thuật nhân hóa, so sánh, những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã phác họa ra một khung cảnh thiên nhiên và con người xứ Huế đầy sức sống, một bức tranh toàn bích hòa quyện giữa cõi thực và cõi ảo, giữa tâm tưởng và ước mong. Qua việc để cho người đọc cảm nhận khổ thơ cuối của bài Đây thôn Vĩ Dạ, tác giả muốn bộc lộ tình yêu mãnh liệt của mình với thiên nhiên, với con người cùng niềm ham sống, khát khao sống của mình.


    Sáng tác bài thơ trong hoàn cảnh cái chết cận kề. Song cái ta bắt gặp vẫn là tình yêu, niềm gắn bó tha thiết với thiên nhiên, con người và sự sống. Cành làm ta đồng cảm, mến phúc trước nghị lực sống phi thường, vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã của biết bao phũ phàng, ruồng rẫy để sống, để cống hiến.


    Giữa giây phút cận kề với cái chết,của sự hoảng loạn và tuyệt vọng nhưng khát khao cháy bỏng Hàn Mặc Tử đã để lại, đã cống hiến cho đời những vần thơ hoàn mỹ đến tuyệt bích “Đây thôn Vĩ Dạ”. Ra đời cách đây gần 8 thập kỷ những những vần thơ đầy suy tư, khắc khoải ấy vẫn làm hàng triệu trái tim độc giả cùng thổn thức, cùng xót xa và cùng hoài niệm với thi nhân. Thật vậy, chỉ một phút thăng hoa cũng đủ để tạo nên một trang tuyệt bút.

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 3
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 3
  4. Raxun Gamzatop đã từng nói "Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình-nghĩa là trở thành nhà thơ". Chính vì thế thơ của Hàn Mặc Tử tạo nên dấu ấn sâu sắc trong phong trào Thơ mới bởi phong cách riêng độc đáo. Thơ ông mang đến tiếng nói của một tâm hồn yêu thiết tha cuộc sống. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng thể hiện nổi bật tình yêu của tác giả đối với cuộc đời, nhưng lại ẩn chứa đầy tâm trạng. Hai khổ thơ đầu tác giả đã gợi lên được vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, đến khổ cuối tác giả lại nêu lên những hoài niệm về con người thôn Vĩ :


    "Mơ khách đường xa khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà"


    Không tìm thấy sự hòa hợp với cõi thực, thi nhân tìm niềm an ủi trong cõi mộng, nhưng mộng đẹp cũng chỉ là hư ảo, dù vậy thi nhân vẫn không thôi khao khát, kiếm tìm. Mở đầu là hai câu thơ nói về hình ảnh con người trong cõi mộng: " Mơ khách đường xa khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra". Điệp từ "Khách đường xa" lặp lại hai lần khiến câu thơ trở nên gấp gáp, giục giã như một lời gọi với theo. Hình ảnh con người xác định hơn bao giờ hết, là "em" nhưng rất xa xôi. Em trong trang phục áo trắng gợi lên vẻ đẹp tinh khôi, trinh nguyên- vẻ đẹp mà Hàn Mặc Tử vẫn luôn tôn thờ, nhưng sắc trắng ấy thật lạnh lẽo, cái lạnh đến từ thế giới hư ảo, mông lung. Sắc áo trắng của em lẫn vào sương khói xứ Huế nên càng mờ mịt, hư ảo, "nhìn không ra". Thi nhân đang sống trong ảo giác, không phải nhìn bằng mắt thường mà bằng đôi mắt tâm tư, đôi mắt tâm hồn của thi sĩ. Hình ảnh trong câu thơ của tác giả vẫn gợi ra vẻ đẹp rất riêng của xứ Huế mộng mơ, một mảnh đất nhiều sương khói mơ màng, những tà áo trắng của nữ sinh Đồng Khánh duyên dáng một thời. Cảnh tượng như hư ảo dần đi, như mơ hồ mãi. Dường như với Hàn Mặc Tử, bóng người con gái ấy cứ hút mãi, xa mãi và cuối cùng chỉ là bóng dáng khát khao, mơ ước của thi nhân. Và bóng dáng ấy chỉ còn là ấn tượng về một tà áo trắng, thanh khiết. Những câu thơ cuối lộ rõ cái tôi trữ tình đau thương và khao khát tình đời, tình người. Trước sau vẫn là biểu hiện của một tâm hồn yêu đời đến đau thương và tuyệt vọng.


    Càng về cuối bài thơ thì tâm trạng tuyệt vọng của nhà thơ được đẩy lên cao, nó được thể hiện qua hai câu cuối: " Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà". Tâm trạng của Hàn Mặc Tử giờ đây chỉ là buồn tủi và tuyệt vọng. Nhà thơ nói "ở đây" là nói về mình và thế giới của mình, chính cái thế giới phủ đầy sương khói mờ ảo ấy. Ông sử dụng đại từ phiếm chỉ "ai" lặp lại cộng hưởng với những lần xuất hiện trước đã cho thấy con người mà tác giả muốn nhắc đến là con người xa vắng trong hoài niệm bâng khuâng. Dù là ai đi nữa thì băn khoăn, âu lo, tuyệt vọng cũng xuất phát từ một tâm hồn khao khát sống, khao khát tình yêu, khao khát tình đời, tình người. Đến đây nhà thơ cay đắng nhận ra khoảng cách giữa người con trai và người con gái mà anh thiết tha yêu không phải là khoảng cách của dặm đường từ Quy Nhơn đến Huế mà là hố sâu ngăn cách hai thế giới: giữa bóng tối và ánh sáng, giữa "sương khói" và "trắng trong" khiến anh không thể nhận ra tình cảm của em. Có thể nhận ra một điều tất yếu rằng giữa hai người lúc này đây sương khói của không gian, thời gian và tình yêu. Và người con trai đang đớn đau vì bệnh tật, đầy mặc cảm với thân phận mình đã không thể tin, không dám tin vào sự đậm đà, thắm thiết của một người. Người ấy sao mà xa cách mình đến thế, mà cứ ở một thế giới nào đó khác mình đến thế? Dường như nhà thơ đang lảng tránh một chữ tình của người con gái xứ Huế. Không gian chìm vào cõi mộng ảo, tâm trạng nhà thơ nửa mê nửa tỉnh trong niềm khao khát được yêu, được sống. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chới với trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà thiết tha như đang nhạt nhòa và mờ đi cùng sương khói.


    Với những hình ảnh thơ độc đáo, đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ giàu tâm trạng, âm điệu, nhịp thơ trong sáng, thiết tha kết hợp với nhân hóa, so sánh, những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã phác họa ra bức tranh thiên nhiên và con người xứ Huế đầy sức sống, một bức tranh toàn bích hòa quyện giữa thực và ảo, giữa tâm tưởng và ước mong. Qua đó, tác giả muốn bộc lộ tình cảm mãnh liệt của mình với thiên nhiên, với con người cùng niềm ham sống, khao khát sống của mình. Sáng tác bài thơ trong hoàn cảnh cái chết cận kề. Song, cái ta bắt gặp vẫn là tình yêu, niềm thiết tha gắn bó với thiên nhiên, con người và sự sống.


    Khổ thơ chứa đựng niềm khao khát được hoài niệm, được mơ, được trở về thăm người xưa chốn cũ của Hàn Mặc Tử đã làm cho bao trái tim yêu văn chương phải thổn thức cùng. Đây cũng là nỗi lòng hướng về xứ Huế sau bao nhiêu năm xa cách trong sự mờ nhạt giữa hiện thực và mộng ảo của nhân vật trữ tình. Tác giả đã sử dụng những biện pháp tu từ hiệu quả làm toát lên được những cung bậc, tâm trạng của chính mình.

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 4
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 4
  5. Hàn Mặc Tử là cái tên nổi bật thuộc trường phái thơ siêu thực với quan niệm thi ca độc đáo và ngôn ngữ lạ hóa. Ông gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả bằng bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" mang phong cách và hương vị trong trẻo, thiết tha. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cùng niềm khao khát mãnh liệt của trái tim yêu cuộc sống, thiên nhiên và con người tha thiết. Điều này được thể hiện sâu sắc và cảm động nhất qua khổ thơ kết thúc bài thơ:


    "Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?"


    Nếu như khổ thơ trước, nhà thơ diễn tả những mặc cảm, xa cách bằng giọng thơ khoắc khoải, da diết thì đến đây, trái tim người đọc không khỏi xúc động bởi sự gấp gáp, khẩn khoản đầy nghẹn ngào:


    "Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra"


    "khách đường xa, khách đường xa" vang lên tiếng gọi chất chứa bao mặc cảm chia lìa. Nghệ thuật điệp liên tiếp 4/3 càng nhấn mạnh, gia tăng nỗi cách trở chia li lên gấp nhiều lần. Xót xa biết nhường nào, người thương đã trở thành khách đường xa, xa vời, hư ảo. Trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng ấy vừa chợt hiện lên đã vội vàng mờ dần, khuất xa. Khách vốn đã xa vời, hiện vào trong "mơ" lại càng hư ảo. Dường như những hình bóng ấy đẹp đến nhường nào vẫn thuộc về thế giới xa xôi ngoài kia, là điều Hàn Mặc Tử khó lòng chạm tới.


    Hình ảnh thơ độc đáo được đặc tả qua chi tiết "áo em trắng quá". Thi nhân choáng ngợp, nghẹn ngào và xót xa bởi lẽ dù khao khát được chạm tới nhưng bệnh tật đã ngăn cách ông với cuộc đời, lạc mất vào cõi hư không "nhìn không ra". Màu trắng ấy không rõ là màu áo của "em" hay mau của những hồi ức xưa cũ chỉ biết rằng nó là sắc trắng mới, tươi trẻ hơn, tinh khôi, tinh khiết thể hiện quan niệm thẩm mĩ cách tân, hiện đại trong thơ Hàn Mặc Tử.


    Câu thơ tưởng chừng vô lý nhưng rất có lý và bất ngờ: "Áo em trắng quá nhìn không ra". Màu trắng choáng hết tâm tư, tình cảm của thi nhân khiến bóng hình trước mắt trở nên mờ nhòe, ảo ảnh. Bài thơ tả cảnh đến đây đã trở thành bài thơ thổ lộ tình yêu đơn phương đầy rung động:


    "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?"


    Nơi không gian tâm tưởng, tác giả như đang chìm đắm trong đau thương, tuyệt vọng đến cùng cực để rồi bật thốt lên "Ai biết tình ai có đậm đà?". Đó là câu hỏi tu từ chất chứa hoài nghi, vô vọng về mối tình đơn phương định sẵn không có đáp án. "Sương khói mờ nhân ảnh" chính là sương khói đang che lấp trong mối tình thi nhân ấp ủ. Đâu còn cảnh thiên nhiên như họa nơi xứ Huế, chỉ còn sương khói che khuất bóng người.


    Câu hỏi "Ai biết tình ai có đậm đà?" vang lên đầy khắc khoải về tình cảm đơn phương tội nghiệp. Kết hợp với đại từ phiếm chỉ "ai" đa nghĩa càng khiến cho ý thơ mênh mang không xác định. Nhà thơ ước ao được trở về chốn xưa, gặp lại cố nhân. Bài thơ khép lại trong nỗi hoài nghi, tuyệt vọng nhưng vẫn cuộn trào trong đó niềm khát khao mãnh liệt của thi nhân với cuộc đời với tình người.


    Có thể nói, chỉ một khổ thơ ngắn nhưng Hàn Mặc Tử đã sáng tạo thành công những hình ảnh thơ độc đáo, gợi cảm, ngôn ngữ thơ biến ảo giàu âm điệu và chất chứa tâm trạng. Nhịp thơ tha thiết, trong trẻo kết hợp cùng các biện pháp nghệ thuật và câu hỏi tu từ khéo léo. Qua đó giúp nhà thơ phác họa khung cảnh thiên nhiên không tuân theo tính thống nhất về không gian và thời gian nhưng đặc biệt ấn tượng. Đặc biệt bộc lộ tình yêu mãnh liệt của mình với thiên nhiên, cuộc sống, bộc lộ khát khao sống mãnh liệt. Khổ thơ đã góp phần không nhỏ làm nên thành công của cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" và phong cách thơ Hàn Mặc Tử.


    Được sáng tác cách đây gần tám thập kỉ, trong hoàn cảnh nhà thơ cận kề với cái chết nhưng bài thơ với đầy suy tư, khắc khoải đến hiện tại vẫn dễ dàng làm rung động trái tim hàng triệu độc giả. Trân trọng thơ cũng như trân trong và đồng cảm với cái tôi Hàn Mặc Tử - thi nhân tài năng bạc mệnh của thế hệ những nhà thơ Mới.

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 5
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 5
  6. Hồn thơ của Hàn Mặc Tử tạo nên dấu ấn sâu sắc trong phong trào Thơ mới bởi phong cách riêng độc đáo. Thơ của ông mang đến tiếng nói của một tâm hồn yêu thiết tha cuộc sống. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng thể hiện nổi bật tình yêu của tác giả đối với cuộc đời, nhưng lại ẩn chứa đầy tâm trạng. Và khổ thơ thứ 3 của bài, cũng là khổ cuối, thể hiện một nỗi niềm khắc khoải hiện rõ, nhà thơ đang ở trong cõi đau thương của riêng mình.


    Hai khổ thơ đầu bài thơ, tác giả đã nêu lên được vẻ đẹp thiên nhiên thôn Vĩ. Đến khổ thơ thứ 3, tác giả nêu lên những hoài niệm về con người thôn Vĩ:


    “Mơ khách đường xa khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tìn ai có đậm đà”


    Một giấc mơ được tạo nên, giấc mơ ấy là niềm mong ước đến tận cùng một hình bóng đẹp của em, của khách đường xa. Em lã của cõi đời những giờ đã trở nên xa xôi quá, từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần cùng nhấn mạnh sự xa xôi ấy. “Áo trắng” được nêu ra khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh những chiếc áo dài, đặc trưng của xứ Huế. Tác giả sử dụng màu trắng làm cho hình ảnh mờ nhòa. Từ “quá” là từ chỉ mức độ, làm cho hình ảnh từ thực đi vào cõi ảo. Cảnh vừa gần vừa xa, vừa thực vừa ảo là vì người thôn Vĩ đã từng quen biết và gắn bó, xa lạ vì khoảng cách giữa không gian, thời gian và tình cảm xa vời. Câu “áo em trắng quá nhìn không ra”, mới đọc ta cảm giác có vẻ khó hiểu, trắng quá là cách nói đầy cảm xúc để tả sắc trắng của áo em, ba chữ “nhìn không ra” là một cách nói đầy ấn tượng để thực tả sắc trắng ấy, màu trắng đã trở thành ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử. Nhịp thơ 4/3 như đẩy người khách càng xa, “mờ” là không thật, “khách” chỉ khoảng cách, “đường xa” gợi sự cách trở, xa vời. Nhân vật khách được đẩy đi cực xa, mờ nhòa đi trong tâm trí của thi sĩ.


    Tâm trạng nhà thơ được thể hiện nổi bật. “Ở đây” được nêu ra mang hai ý nghĩa. Đó có thể là chỉ thôn Vĩ, cũng có thể chỉ là nơi nhà thơ đang trị bệnh. Địa danh được nêu ra không rõ ràng, đối tượng miêu tả cũng không rõ. Từ phiếm chỉ “Ai” cũng có thể là nhân vật anh, cũng có thể là nhân vật em, “sương khói” ám chỉ sự vật không rõ. Câu cuối bài thơ mang câu hỏi với đại từ “ai” thật xa vời đã khép lại bài thơ một nỗi ngậm ngùi, bởi tình người quá mong manh, xa vời giữa sương khói của vùng đau thương tuyệt vọng. Câu thơ nhuốm màu hoài nghi: hoài nghi về sự đậm đà trong tình cảm của ai đó. Chữ “ai” thứ nhất có thể hiểu theo nghĩa hẹp là khách đường xa, cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng là tình người trong cõi trần gian này. Sắc thái tâm lý ở đây không tin vào sự đậm đà của ai đó, mà không dám tin thì đúng hơn. Không tin nghiêng về sự lạnh lùng, hoàn toàn không mong đợi gì là thái độ chán đời, còn không dám tin là vẫn bao hàm một hy vọng sâu kín chỉ không biết mình có thể tin và có quyền được tin như thế hay không. Đây là sự hoài nghi của con người yêu đời, yêu cuộc sống, đó cũng chính là uẩn khúc của một người có tấm lòng thiết tha với cuộc đời. Sự hoài nghi của thi sĩ hướng đến tình cảm rất nhân văn: hướng tới sự thủy chung, mong muốn tình yêu trọn vẹn, mong muốn hạnh phúc.


    Nhà thơ Hàn Mặc Tử đã sử dụng bút pháp lãng mạn, tác giả đã khắc họa được các hình ảnh độc đáo, ngôn ngữ thơ cực tả nhưng luôn trong sáng. Độc giả nhận ra được niềm trân trọng, cảm thông với khát vọng và nỗi đau của tác giả. Đó là một con người có tâm hồn và tài năng, nhưng lại phải gánh chịu một số phận bất hạnh đầy bi thương, một nỗi u hoài tích cực và thiết tha với cuộc sống.

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 6
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 6
  7. Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) là một nhà thơ có phong cách kỳ lạ nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông mang giọng điệu vô cùng độc đáo, chẳng giống với âm hưởng của bất kỳ ai. Có lẽ bởi chính những bi thương trong cuộc sống đã khiến Hàn Mặc Tử trở thành một linh hồn thơ độc đáo như vậy. Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm thơ tiêu biểu của ông, đó là những vần thơ tinh khôi và trong trẻo nhưng ẩn chứa biết bao đau đớn. Mỗi khổ thơ trong Đây thôn Vĩ dạ đều mang một sắc thái, ý nghĩa khác nhau. Trong đó, ở cuối ta sẽ cảm nhận rõ ràng nhất tâm trạng hoài nghi và những nỗi niềm sâu lắng của người con ở xa xứ Huế.


    Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?


    Ở đoạn thơ này, Hàn Mặc Tử đã viết lên nỗi lòng chất chứa của mình. Là một người xa quê đã lâu, cái tôi trữ tình của Hàn Mặc Tử ao ước một lần được trở về thôn Vĩ. Ấy thế nhưng ao ước ấy cũng chẳng thành, thế nên người thi sĩ mơ tưởng đến con người nơi đây “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Những người vốn gắn bó với nhân vật trữ tình giờ chỉ xuất hiện trong giấc mơ, và còn trở thành khách đường xa.


    Hàn Mặc Tử ao ước được trở về chốn cũ để thỏa lòng nhớ mongHình ảnh “khách đường xa” gợi lên nỗi nhớ da diết, khát khao đến cháy bỏng được gặp lại người xưa, chốn cũ. Dường như cái khát khao ấy luôn làm tác giả phải day dứt khôn nguôi. Ở đây, Hàn Mặc Tử đã sử dụng điệp ngữ “khách đường xa” như hai dòng cảm xúc. Một bên là khát vọng để được gặp lại người xưa, cảnh cũ. Còn một bên lại là thực tại vô vọng, khiến con người ta bế tắc. Câu thơ ấy cho ta cảm nhận sự nghẹn ngào, tưởng chừng được gặp người xưa nhưng chỉ trong chốc lát bóng dáng ấy đã mờ dần và khuất xa. Câu thơ chính là lời tự sự mang bao sự hụt hẫng của nhà thơ.


    Và trong giấc mơ ấy, bóng hình em hiện lên thật mơ hồ, ám ánh “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Màu áo quá trắng sáng hay là màu sương khói làm người thị sĩ không thấy rõ? Cái màu áo trắng đến lạ lùng khiến người thi sĩ trong chốc lát chắc thể nào nhìn được. Hàn Mặc Tử chắc hẳn không phải mơ về một hình ảnh cô em áo trắng thông thường. Có lẽ hình ảnh ấy chính là sự gửi gắm tâm sự sâu trong cõi lòng của người thi sĩ. Vẻ đẹp tinh khôi, trinh nguyên của người con gái xứ Huế mộng mơ khiến người thi sĩ say mê đến độ chẳng thể nhìn rõ. Cái vẻ đẹp hư mà thực khiến nhà thơ chìm đắm đến tột bậc. Nhưng câu thơ cũng vỡ ra nhiều điều, đó chính là lời thú nhận bất lực của người thi sĩ.


    Càng mơ tưởng về người xưa, cảnh cũ, tác giả chẳng thể nào thoát khỏi nỗi đau thương. Hình ảnh người xưa hiện lên càng lộng lẫy thì càng làm khoảng cách trở nên xa hơn. Có lẽ vậy tác giả mới chấp nhận ngắm nhìn hình ảnh mơ hồ ấy. Nhưng rồi Hàn Mặc Tử cũng phải ngậm ngùi trở về thực tại, đó là nơi “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Hàn Mặc Tử chẳng nói rõ “ở đây” là ở đâu, là xứ Huế mộng mơ hay trại phong lạnh lẽo. Sự bao trùm của sương khói được tác giả miêu tả đến độ vùi lấp cả bóng người. Có lẽ “sương khói” ở đây không đơn thuần là hiện tượng tự nhiên, mà đó là lớp sương khói của không gian, thời gian, của mối tình đơn phương vô vọng. Chính những lớp sương khói ấy đã phủ kín người xưa, chốn cũ và phủ kín cả thực tại của tác giả.


    Thôn Vĩ Dạ trở nên mơ hồ trong tiềm thức của Hàn Mặc TửTrong cuộc đời đầy bão táp ấy, sợi dây tình cảm với em gái Vĩ Dạ đã níu kéo người thi sĩ với cuộc đời. Thế nhưng, ngay cả chút tình mong manh ấy cũng trở nên mong manh, mờ ảo “Ai biết tình ai có đậm đà”. Ở đây, Hàn Mặc Tử dùng đại từ “ai” làm bật lên cảm giác vô định và hoài nghi. Dường như đây không chỉ là câu hỏi cho người mà còn là câu hỏi chất vấn chính mình của Hàn Mặc Tử. Câu thơ đấy khiến ta thấy sự gần gũi nhưng lại có gì đó xa xôi, nghe sao có phần trách móc.


    Hàn Mặc Tử khát khao được về với thôn Vĩ, được gặp lại người xưa, chốn cũ, nhưng người lại chẳng thể về vì nào đâu biết “tình ai có đậm đà”. Có lẽ, tác giả sợ, sợ phải đối mặt với thực tại, sợ những lầm tưởng của mình là đúng. Thế nên bằng cách nào đó Hàn Mặc Tử muốn trốn tránh. Điều này càng làm cho người ta thấy sự xót xa, đau đớn về một tình yêu mãnh liệt nhưng vô vọng.


    Càng phân tích khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta mới thấu được tình cảnh của người thi sĩ. Đó là nỗi nhớ quê, nhớ người trong khắc khoải, cô đơn. Cũng qua đó, ta thấy được sự tinh tế và tài năng của Hàn Mặc Tử.

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 7
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 7
  8. Hàn Mặc Tử là nhà thơ thuộc trường phái thơ siêu thực, quan niệm thơ độc đáo, khác lạ, cái nhìn siêu thực, ngôn ngữ lạ hóa. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm mang phong vị trong trẻo, thiết tha, hiếm gặp trong thơ Hàn Mặc Tử. Lấy cảm hứng từ một cuốn bưu thiếp mà Hoàng Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử sau khi biết được tình yêu đơn phương mà Hàn Mặc Tử dành cho mình, thi sĩ đã viết nên bài thơ để cảm nhớ về mối tình xưa cũ vẫn còn nồng cháy trong tim. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, niềm khao khát của con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, con người. Đặc biệt, khổ thơ cuối của bài thơ đọng lại nỗi hoang mang của tác giả, vừa có chút hoài mong, vừa như vô vọng trong tình yêu đơn phương:


    “Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra...

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?”


    Theo lời của bạn bè và người thân nhà thơ kể lại khi làm ở sở đạc điền ở Qui Nhơn, Hàn Mạc Tử đem lòng yêu cô gái tên là Hoàng Thị Kim Cúc mà chúng ta vẫn quen gọi là Hoàng Cúc. Đây là cô gái con nhà viên chức lại có vẻ đẹp dịu dàng kín đáo kiểu chân quê. Thực ra đây chỉ là mối tình đơn phương từ phía Hàn Mạc Tử.


    Khi nhà thơ mắc bệnh nan y, ông đã nhận được tấm thiệp kèm lời hỏi thăm của Hoàng Cúc. Lời thăm hỏi không ký tên, nhưng bức ảnh và những dòng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng, và đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử… Thi sĩ đã viết bài thơ này để tặng cho cô gái. “Đây thôn Vĩ Dạ” mang giọng điệu tha thiết. Tha thiết với người con gái anh thầm yêu, với cảnh Huế, người Huế và trên hết với cuộc đời. Những điều này đã biến tiếng nói nội tâm riêng tư của Hàn Mặc Tử trở thành tiếng lòng muôn đời của người trong cuộc đời.


    Căn cứ vào bài thơ, ta sẽ thấy rõ dòng chảy của tình cảm của nhà thơ. Nếu khổ thơ thứ nhất tả vẻ đẹp của vườn cây thôn Vĩ và thi sĩ gửi gắm ước mong một ngày nào đó được trở về thăm cảnh cũ người xưa; đến khổ thơ thứ hai tả cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo: gió, mây, dòng nước, hoa bắp tay… trong không gian quạnh vắng, đìu hiu. Nét thực nét ảo cứ chập chờn chuyển hóa. Khung cảnh thấm đẫm nỗi buồn thương, giống như tâm trạng đang chới với, lo âu, nghẹn ngào của thi sĩ trước linh cảm tan vỡ, chia lìa của tình yêu; thì khổ thơ thứ ba lại khắc đậm hình ảnh khách đường xa và chốn sương khói mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo.


    Dẫu có hình ảnh của khách đường xa, áo trắng… nhưng tất cả đều nhạt nhòa, vô định như một mối tình vừa mới định hình đã vội hóa thành hư vô, đọng lại trong lòng người một nỗi hoài nghi, hi vọng. Những người con gái trong thơ Hàn Mặc Tử bao giờ cũng hiện thân cho vẻ đẹp tuyệt đỉnh của trần thế. Ở khổ thơ cuối của bài thơ cũng tập trung vào hình ảnh của thiếu nữ. Hình ảnh gần gũi thân thương của “em” đã trở thành nhân cách, xa vời, hư ảo. Lời thơ nghe như có gì thổn thức, nghẹn ngào, hụt hẫng, chới với, bẽ bàng:


    “Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra...”.


    Trên là vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của “khách đường xa”. Hình ảnh này gợi cho ta nhớ tới gương mặt chữ điền có lá trúc che ngang không thể nào quên. Đây là hình ảnh người con gái Huế có vẻ đẹp trinh khiết đầy xuân tình mà thi sĩ hằng yêu mến. Gắn với hình dáng ấy là sắc áo trắng tinh khôi. Màu áo ở đây cũng là màu áo trong tâm tưởng. Tác giả hình dung trong tâm tưởng để thấy lại cái màu trắng của kí ức, cho nên nó hư hư thực thực. Câu thơ đầy ảo giác nhưng rất hay, rất có lí và bất ngờ: Áo em trắng quá nhìn không ra. Màu trắng giờ đang choán hết tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bài thơ tả cảnh đã thành bài thơ thổ lộ tình yêu. Một thứ tình yêu đơn phương, thiết tha và có phần tội nghiệp:


    “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?”


    Giữa anh và nơi ấy là khoảng cách của sương khói: sương khói không gian, thời gian sương khói của mối tình vô vọng. Ở câu thơ cuối hai đại từ “ai” chỉ hai người trong mối quan hệ khăng khít. Tín hiệu tình người có nhưng chưa đủ để cứu rối linh hồn, nhất là những linh hồn bất hạnh. Nhà thơ mong cái tuyệt đỉnh của tình người: đậm đà. Câu thơ có chút hờn giận nhẹ nhàng, có phủ bòng hoài nghi và trên hết là sự ghi nhận một tấm lòng.


    Hai câu thờ cuối dẫn ta vào cõi hoài niệm của nhà thơ. Sương khói làm mờ nhân ảnh không phải là sương khói ngoài đời mà là sương khói trong mối tình đương nhen nơi lòng thi sĩ, là cái khoảnh khắc nhà thơ đắm đuối trong cơn mộng tưởng. Đâu còn nắng hàng cau, vườn mướt quả Đâu còn xanh như ngọc, mặt chữ điền Cũng chẳng còn gió mây, dòng nước buồn, hoa bắp lay, sông trăng và con thuyền chở trăng về… Chỉ còn sương khói che khuất bóng người. Không chỉ hình bóng em mờ mà thân xác anh cũng mờ tan trong sương khói lạnh lẽo. Còn lại may có chữ tình, nhưng nhà thơ vẫn băn khoăn, khắc khoải:


    Ai biết tình ai có đậm đà?


    Ở đây, một tình yêu đơn phương, day dứt đến tội nghiệp. Nỗi niềm băn khoăn, day dứt khôn nguôi càng nhấn mạnh khao khát được sống, được giao cảm yêu thương và chia sẻ với cuộc đời. Nỗi niềm băn khoăn, day dứt khôn nguôi càng nhấn mạnh khao khát được sống, được giao cảm yêu thương và chia sẻ với cuộc đời của tác giả.


    Điệp ngữ “khách đường xa” có sức gợi tả, ngắt nhịp 4/3 tạo nhịp điệu khẩn trương gấp gáp. Nhấn mạnh sự mong đợi tha thiết, lời khẩn khoan van nài những người xưa thật xa xôi, tất cả trở nên vô vọng. Hình ảnh màu áo trắng mờ ảo trong sương khói khiến cho dáng hình con người nhòa đi trước mắt, nhòa đi cả trong tiềm thức. Màu áo trong tâm tưởng vốn trần đầy kỉ niệm nay trở nên nhạt nhòa, xa cách. Câu hỏi tu từ cùng với đại từ phiếm chỉ “ai” – lớp từ đa nghĩa càng khiến cho ý cho rơi vào mênh mang. Thiên nhiên chập chờn, ma mị, mộng ảo, vận động theo logic của tâm trạng. Đó là cái tôi đau thương, nhạt nhòa không ra đường nét, là nỗi niềm hoài nghi, khắc khoải, mong chờ trong vô vọng, là tâm trạng đau thương, mặc cảm không dám trông mong vào sự đậm đà của tình người trong chốn nhân gian.


    Khổ thơ thứ ba tiếp nối nguồn mạch tình cảm ở hai khổ thơ trên và đi sâu vào bên trong mối tình, từ nỗi cách ngăn gió mảy chia đường đến sự đứt gãy. Từ cảnh thiên nhiên như reo vui, tràn đầy sức sống ở khổ thơ thứ nhất đi dần tới sự xóa nhòa tất cả vào mơ, vào sương khói ở khổ thứ ba. Một mối tình hết sức thiết tha, nồng ấm nhưng đành để nó mất hút vào cõi mông lung, mờ mịt; chỉ còn lại dư vị đậm đà trong lòng người và cả lòng mình.


    Bài thơ bắt đầu bằng điệu vui tươi nhưng kết thúc lại buồn như vừa lỡ một cuộc hẹn hò. Có phải nội dung bài thơ chỉ giới hạn ở một nỗi đau cụ thể là mối tình lỡ làng của tác giả với một người con gái Huế ? Nếu vậy, nó không tồn tại đến tận ngày nay. Cũng không phải nó nói giùm niềm đau của ngàn vạn chàng trai không may trong trường tình. Gốc rễ sâu xa của nỗi bẽ bàng trong bài thơ vượt ra khỏi khuôn khổ tình yêu của một đôi trai gái, mà nói lên tâm trạng chưa kịp vui đã thấy buồn, mới vừa ban mai mà đã vội chiều tà, bao ước mơ tốt đẹp tất thảy đều tuột khỏi tầm tay. Đó là tâm trạng của tầng lớp trí thức trẻ 1930 – 1945 rất hào hứng tự khẳng định mình nhưng luôn bị những áp lực của xã hội phủ định, trong khi ánh sáng của cách mạng chưa soi rọi tới.


    Tác giả lặng đi trong mơ tưởng. Người khách đường xa này hình như không liên quan gì đến nhân vật anh ờ câu đầu mà lại gợi tả người khách má hồng thoáng gặp mà nhớ mãi. Màu áo trắng là màu tâm tưởng, màu kí ức hư hư ảo ảo. Thôn Vĩ đến đây chỉ còn là địa điểm có liên quan đến màu trắng ấy. Bài thơ cảnh quê đã thành bài thơ tình yêu. Một tình yêu đơn phương khó xác định.Câu thơ cuối dẫn ta đến cõi nào của tâm tưởng. Ở đây là ở mối tình mới nhen, là khoảng khắc đắm đuối nhìn không ra. Ý thơ chơi vơi, gợi mở, cảm được mà khó cắt nghĩa…


    Tâm trạng của thi sĩ diễn biến theo chiều hướng: ao ước đắm say – hoài vọng phấp phỏng – mơ tưởng hoài nghi. Càng về sau càng có phần u uẩn và sầu muộn. Đó là những cung bậc khác nhau của một mối tình vô vọng. Tuy nhiên, đằng sau mối tình ấy vẫn là một niềm thiết tha gắn bó với đời. Những câu hỏi này là hình thức để nhà thơ tỏ bày tâm trạng. Âm điệu bài thơ càng về sau càng da diết, sâu lắng và nhờ đó mà ba khổ thơ tưởng như tách biệt lại liên kết với nhau một cách tự nhiên, tạo thành một bài thơ hoàn chỉnh có vẻ đẹp khác thường.


    Ở Khổ thơ cuối bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, mỗi câu thơ đều ôm chứa một chất thơ hoàn chỉnh, có thể trích độc lập mà vẫn có vị. Mỗi khổ là một bài tứ tuyệt. Nhưng gộp cả lại thì tất cả lại ràng buộc với nhau, không thể tháo bỏ, không cần thêm ý, không thể đảo lộn vị trí từng câu, không thể thay thế các từ. Bài thơ thật trong sáng. Hình như ai cũng cảm nhận được vẻ đẹp của nó nhưng phân tích mãi, vẻ đẹp ấy vẫn còn bí ẩn. Nỗi buồn của bài thơ trong sáng và thấm thía.


    Thấp thoáng trong màn sương khói hư ảo của tình yêu đôi lứa là tình yêu thiết tha, đằm thắm đối với quê hương đất nước. Vì khơi gợi và làm rung động tình cảm chung của nhiều người như thế nên bài thơ vốn diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn của nhiều thế hệ yêu thơ Hàn Mặc Tử. Khổ thơ cuối bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khép lại niềm vọng tưởng trong khói sương mơ hồ và nỗi hoang mang bất tận. Niềm tin rơi vào thinh không đáng sợ.

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 8
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 8
  9. Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử nổi bật với giọng thơ độc đáo, kì lạ mang đậm màu sắc Hàn Mặc Tử mà không bị pha trộn, chia sẻ âm hưởng với bất cứ ai. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, độc giả cảm nhận được nỗi đau khổ quằn quại cùng cái tôi yêu đời nhưng tuyệt vọng đến đau thương cùng cực. “Đây thôn Vĩ Dạ” được coi là bài thơ trong trẻo, tươi sáng lạ lùng giữa những bài thơ chứa đầy “huyết lệ”. Bài thơ viết về khung cảnh đẹp đẽ của thôn Vĩ lúc bình minh, tuy niên bên trong bức tranh phong cảnh lại là bức tranh tâm trạng ẩn chứa những nỗi đau, nỗi ám ảnh về sự chia phôi của cái tôi đầy bất an trước cuộc đời.


    Nếu trong khổ thơ đầu tiên, Hàn Mặc Tử hướng đến phác họa bức tranh phong cảnh thôn Vĩ trong sáng, tươi đẹp, khổ thơ thứ hai viết về sự chia lìa, xa cách thì đến khổ thơ cuối của bài tác giả đã bước ra khỏi thế giới của hiện thực để bước vào thế giới tâm tưởng, nơi chứa đựng những suy tư chất chồng với những nỗi đau đớn, tuyệt vọng của bản thân.


    Sống trong cuộc đời có nhiều nỗi buồn, tuy nhiên dù có bị cuộc đời tuyệt giao thì Hàn Mặc Tử vẫn thể hiện tình yêu cuộc sống đầy thiết tha, chân thành. Hoàn cảnh thực tại không cho phép nhà thơ về thăm lại thôn vĩ, tác giả đã bước vào thế giới của tâm tưởng, nơi có thể sống thành thực nhất với những khát vọng của bản thân. Hàn Mặc Tử đã nhớ đến bóng dáng của người thôn Vĩ:


    “Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra”


    Trình bày cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ“Khách đường xa” được nhắc đến trong câu thơ gợi cho độc giả nhiều liên tưởng độc đáo, đó có thể là bóng dáng của người thôn Vĩ, cũng có thể là hình dáng tự phác họa của nhà thơ, đó cũng có thể là bóng dáng của con người thôn Vĩ, người mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ. Lời gọi “Mơ khách đường xa, khách đường xa” thật da diết nhưng cũng chất chứa bao nỗi buồn, mặc cảm của sự chia lìa, xa cách.


    Trong giấc mộng của thi sĩ, bóng dáng “em” đã hiện lên như gần, như xa, dù cố gắng nhận biết, nắm giữ nhưng càng cố gắng càng nhòe mờ đến vô vọng “Áo em trắng quá nhìn không ra”.Câu thơ như lời tự thuật nhưng lại mang âm điệu của tiếng nấc đầy nghẹn ngào, đau đớn.


    Mơ tưởng về bóng dáng của người thôn Vĩ nhưng Hàn Mặc Tử vẫn không sao vượt thoát khỏi nỗi buồn, sự mặc cảm, tuyệt vọng của bản thân. Sau bao cố gắng vẫy vùng trong thế giới tâm tưởng, với những khát khao cháy bỏng, cuối cùng thi sĩ đành ngậm ngùi trở về với thực tại đau khổ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “ở đây” khó có thể xác định được là không gian nào, đó là không gian tâm tưởng, không gian xứ Huế mờ sương hay là lãnh cung đau khổ nơi Hàn Mặc Tử tự giam giữ chính mình? Có lẽ chính Hàn Mặc Tử cũng không thể xác định vị trí chính xác mà đang lạc lõng vẫy vùng giữa không gian rộng lớn xung quanh mình tựa như những câu thơ mà tác giả từng viết:


    “Tôi đang ở đây hay ở đâu

    Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu”


    Những lớp sương khói mịt mù như bao phủ khắp không gian, che mờ nhân ảnh tạo nên không gian tịch mịch đến đáng sợ. Trong cái mờ ảo ấy Hàn Mặc Tử thể hiện nỗi đau khổ với hoài nghi “Ai biết tình ai có đậm đà”. Xuyên suốt bài thơ tác giả thể hiện khát khao đến cháy bỏng được một lần trở về thôn Vĩ, đáp lại tấm chân tình của “em” người con gái thôn Vĩ nhưng lại trăn trở liệu đó có phải tình cảm chân thành dành cho mình hay không, hay chỉ là lời mời mọc vô tình nhưng lại mang đến những hi vọng đầy đau đớn cho thi nhân.


    Đây thôn Vĩ Dạ được khép lại bằng nỗi buồn đầy khắc khoải của cái tôi yêu đời, khát khao được sống nhưng đang dần chìm đắm trong nỗi buồn của bản thân cùng nỗi tuyệt vọng về mối tình đơn phương, vô vọng.

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 9
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 9
  10. Nhắc đến Hàn Mặc Tử, người ta không thể không nhớ đến bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của ông. Được khơi nguồn nguồn cảm hứng từ tấm bưu thiếp và những lời hỏi thăm của Hoàng Thi Kim Cúc, người con gái thôn Vĩ mà Hàn Mặc Tử đã từng thầm thương trôm nhớ, bài thơ là là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn cô đơn của nhà thơ trong một mối tình xa xăm, vô vong; một tấm lòng thiết tha của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sông, con người. Đọc đến khổ thơ cuối cùng, những ám ảnh về tình đời, tình người con đọng lại mãi trong lòng người đọc:


    “Mơ khách đường xa khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ớ đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?”


    Ở hai khổ thơ trên, ngòi bút Hàn Mặc Tử hướng tới thiên nhiên xứ Huế để bộc lộ tâm tư, tình cảm. Hình ảnh thôn Vĩ chỉ hiên lên trong hồi tưởng nhưng chân thực và đầy sự sống, ở đó có “nắng hàng cau”, có khu vườn xanh mướt màu ngoe bích, có khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thuần hâu, chất phác,có dòng sông Hương êm đềm thơ mông, có vầng trăng xứ Huế huyền ảo thơ mộng. Khung cảnh thiên nhiên đẹp nhưng đượm buồn bởi cái nhìn hướng về quá khứ chất chứa đầy tâm trang. Đến khổ thơ cuối cùng, nhà thơ trục tiếp bộc lô nỗi niềm tâm sư của mình với người xứ Huế. Bến sông trăng, thuyền trăng đưa thi nhân vào cõi mộng. Ký ức dừng lai với hình ảnh con người: Khách đường xa. Hình ảnh ảo nhiều hơn là thực. Tất cả đều xa xôi, mờ ảo. Màu trắng của áo, của sương khói, của ký ức, hoài vong xa xôi không bao giờ có thực. Khách đường xa có thể là Hoàng Cúc, là cô gái Huế, là người có thực mà nhà thơ gặp và nhớ. Và cũng có thể đó chính là tác giả. Hàn Mặc Tử mong muốn được trở về thôn Vĩ những đó cũng chỉ có thể là một cuộc trở về trong mộng tưởng. Và tội nghiệp thay, trong mộng tưởng nhà thơ giờ đây cũng chỉ là một vị khách - khách đường xa - mờ ảo, la lẫm mà thôi.


    Điệp ngữ “mơ khách đường xa” mở đầu khổ thơ như nhấn manh nỗi xót xa, như lời thầm tâm sư của nhà thơ với chính mình: Trước lời mời của cô gái thôn Vĩ (mà cũng có thể là lời tư trách cứ, tư hỏi mình: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”), có lẽ nhà thơ chỉ là người khách quá xa xôi, hơn thế nữa, chỉ là người khách trong mơ mà thôi. Và sau mỗi lần “mơ” ấy, khoảng cách lai bi kéo ra xa hơn, diệu vơi hơn. Nếu như vi khách đường xa còn khiến cho người ta băn khoăn thì hình ảnh “Áo em trắng quá nhìn không ra” lai là một hình ảnh gợi đến một người con gái thôn Vĩ mà tác giả gọi là “em”. Nếu vi khách là người thôn Vĩ thì đó giờ đây cũng đã trở thành khách đường xa mờ ảo. Còn nếu như người đó chính là Hàn Mặc Tử thì vi khách ấy càng trở nên tội nghiệp. Cuộc trở về trong mộng đã không khiến cho nhà thơ cảm thấy hanh phúc hơn. Cay đắng, thảng thốt, tuyệt vọng là âm hưởng của “mơ khách đường xa” và “áo em trắng quá nhìn không ra”.


    “Ớ đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?”


    Thêm một lần nữa những câu thơ của Hàn Mặc Tử khiến cho người ta phải băn khoăn bởi câu hỏi chơi vơi khắc khoải. “Ai” là ai? “Tình ai” là tình của ai? Chỉ biết rằng cái tình đó giờ đây cũng thật mong manh. Với một người đang mang trong mình mặc cảm bênh tật và cái chết nhưng vẫn hướng về thôn Vĩ với những tình cảm thương yêu, ắt hẳn sẽ không có gì phải băn khoăn về tình cảm của mình. Có lẽ. điều mà nhà thơ băn khoăn ở đây chính là liệu có ai ở thôn Vĩ kia hiểu được cho những tình cảm của tác giả, khi đó “ai” là tác giả và “tình ai” sẽ là tình của chính nhà thơ. Và băn khoăn hơn nữa đó là nhà thơ (“ai”) cũng không thể dám chắc được tình cảm của người ở thôn Vĩ (“tình ai”) dành cho mình. Dường như ở đây đang có một khoảng cách tuy mờ ảo (Sương khói mờ nhân ảnh) nhưng lai là một khoảng cách không thể nào xóa tan nổỉ. Và nhà thơ, đang đớn đau để chông choi với bệnh tật giờ đây lai phải chiu dưng thêm nỗi đớn đau về mặt tinh thần: khát khao được trở về, được san sẻ tình cảm mà không được. Giữa nhà thơ và cuộc sống giờ đây không chỉ được ngăn cách bằng bức tường của trai phong Tuy Hòa, bằng nỗi mặc cảm của chính nhà thơ mà còn bởi nỗi cái mờ ảo của tình người làm tăng thêm nỗi trống vắng, cô đơn trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.


    “Bài thơ càng về cuối càng tăng chất ảo, bất đinh phiếm chỉ, nhưng nỗi niềm nhà thơ, nỗi buồn nhân thế mỗi lúc một lớn, rõ thêm, ám ảnh người đọc. Nỗi niềm đó chúng ta đã hiểu, mãi mãi trân trọng và nâng niu” (Lê Huy Bắc).

    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 10
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài
    Bài văn cảm nhận khổ thơ cuối bài "Đây thôn Vĩ Dạ" số 10




Công Ty cổ Phần Toplist
Địa chỉ: Tầng 3-4, Tòa nhà Việt Tower, số 01 Phố Thái Hà, Phường Trung Liệt, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0369132468 - Mã số thuế: 0108747679
Giấy phép mạng xã hội số 370/GP-BTTTT do Bộ Thông tin Truyền thông cấp ngày 09/09/2019
Chịu trách nhiệm quản lý nội dung: Nguyễn Duy Ngân
Chính sách bảo mật / Điều khoản sử dụng | Privacy Policy